Văn hóa miền Tây – Miền Tây vùng đất của những con người chân chất, mộc mạc và giản đơn. Có lẽ cũng chính tính cách cởi mở và dung hòa của con người nơi đây đã mang đến màu sắc ẩm thực miền tây dung hòa vô cùng đa dạng cho vùng đất này. Khám phá về ẩm thực miền Tây luôn luôn là đề tài thu hút và nhận được rất nhiều sự quan tâm của con người.
Đi xa có nhớ quê nghèo Nhớ bún nước lèo, nhớ mắm Ba Xuyên.
Bún nước lèo ban đầu chỉ là một món ăn dân dã của người Khmer tại địa phương, trải qua chiều dài thời gian thì hương vị này đã trở thành nét văn hóa ẩm thực của người dân nơi đây, là đặc sản của quê hương Sóc Trăng, mang đậm hương vị độc đáo, hòa quyện của 3 dân tộc anh em Kinh – Hoa – Khmer.
Bún nước lèo Sóc Trăng có ít nhiều khác biệt với một số địa phương lân cận trong vùng. Sang thì tô bún có đủ thứ: cá lóc, tép bạc, heo quay…, đơn giản hơn thì chỉ cần con cá lóc trọng trọng cũng có thể nấu được nồi nước lèo.
Song có hai thứ không thể thiếu là ngải bún và mắm bò hóc. Ngải bún trước đây thường mọc hoang, sau được người ta trồng trong vườn nhà làm gia vị. Ngải bún có tác dụng khử mùi tanh của mắm. Mắm bò hóc được người Khmer làm từ các loại cá đồng trộn với muối và cơm nguội.
Để có được nồi nước lèo ngon phải kiếm con cá lóc đồng tối thiểu trên 0,5kg, được cá có trứng càng hấp dẫn vì nồi nước lèo sẽ nổi váng trứng vàng ươm, bắt mắt. Cá làm sạch, cắt thành hai phần đầu và đuôi: đầu dính với bộ đồ lòng là phần ngon nhất.
Tép bạc hoặc tôm thẻ luộc, bỏ vỏ cứng. Thêm mấy miếng thịt heo quay xắt miếng cỡ lóng tay hoặc chả cá thác lác, cá mè vinh thì tô bún càng ngon miệng. Nước lèo có thể nấu bằng nước dừa tươi để tăng thêm vị ngọt, cho mắm bò hóc vào nồi nước lèo đang sôi.
Ngải bún nướng sơ qua lửa than và gốc sả đập dập thả vô nấu tiếp. Hớt bọt kỹ, đến khi nước trong thả cá làm sạch vào.
Bún nước lèo được ăn kèm với rau muống chẻ, giá sống, bắp chuối bào nhỏ, chuối xắt ghém… thêm ít lá rau húng, rau quế, ớt sừng trâu chín đỏ xắt lát xéo, nước mắm hòn Lại Sơn hay nước mắm Phú Quốc mới đúng điệu và làm tăng hương vị đậm đà. Đây là món ăn thể hiện sự giao thoa cũng là sự sáng tạo văn hóa ẩm thực giữa các dân tộc anh em ở địa phương.
Không chỉ dừng lại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà ngày nay, hương vị món ăn này đã lan tỏa trở thành đặc sản châu Á.
Bún nước lèo Sóc Trăng ngày nay không chỉ là món ăn dân dã địa phương, hương vị đã lan tỏa ra tầm thế giới, góp phần đưa hình ảnh đất nước, con người và món ăn Việt đến với bạn bè quốc tế.
Sau quá trình chọn lọc (từ năm 2012 đến năm 2023), 10 đề cử đã được Tổ chức Kỷ lục châu Á quyết định công bố xác lập, theo Bộ tiêu chí Kỷ lục ẩm thực và đặc sản châu Á, nâng số lượng các kỷ lục về ẩm thực và quà tặng đặc sản Việt Nam đạt Kỷ lục châu Á lên số lượng 60 món; trong đó, có 38 món ăn đặc sản và 22 đặc sản thiên nhiên và đặc sản quà tặng của các địa phương.
Trong danh sách công bố lần IV (năm 2023 – 2024), tỉnh Sóc Trăng vinh dự có món ăn đặc sản bún nước lèo được xác lập Kỷ lục châu Á theo Bộ tiêu chí công bố giá trị ẩm thực, đặc sản châu Á, căn cứ đề cử của Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings). Điều đó sẽ góp phần quảng bá nền ẩm thực Việt Nam nói chung và ở các địa phương nói riêng đến đông đảo du khách trong và ngoài nước thông qua hệ thống các Tổ chức Kỷ lục trên toàn cầu.
Lễ hội Ooc Om Bok, còn được gọi là Phochia Praschanh som paes khee, là lễ Cúng Trăng. Lễ hội này diễn ra hầu như khắp các tỉnh có đồng bào dân tộc Khmer cư ngụ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng lớn nhất và được biết nhiều nhất là ở TP.Sóc Trăng (Sóc Trăng). Vài năm qua, lễ hội này đã được tổ chức tại TX.Trà Vinh (Trà Vinh), TP.Rạch Giá (Kiên Giang), Ô Môn (TP.Cần Thơ)
Bên cạnh Giải đua ghe ngo truyền thống, Tuần lễ hội Ooc Om Bok còn diễn ra nhiều hoạt động phong phú như: Hội chợ nông nghiệp; Hội diễn nghệ thuật quần chúng và trình diễn trang phục Khmer; Liên hoan ẩm thực đường phố; Liên hoan trích đoạn Sân khấu Dù kê và Rô băm của đồng bào Khmer; Hội thi thả đèn nước: biểu diễn ghe Kà Hâu…
Trong vô số lễ hội quanh năm của đồng bào dân tộc Khmer, có ba lễ hội quan trọng là Chol Chnam Thmay, Dolta và Ooc Om Bok. Nhưng lễ hội Ok Om Bok được tổ chức rôm rả hơn cả.
Lễ hội Ooc Om Bok ở các nơi thường được bắt đầu bằng cuộc đua ghe ngo (“Um Tuk Ngua”). Ghe ngo dài khoảng 24 m, ngang 1,2 m, làm từ thân cây sao khoét ruột, giống hình rắn thần Nagar – linh vật của người Khmer. Ghe chứa khoảng 40 tay chèo. Mũi và lái ghe uốn cong. Thân ghe trang trí hoa văn sặc sỡ. Hoa văn đẹp đẽ này còn được chăm chút trên từng cây dầm. Người Khmer coi ghe ngo là vật quý, linh thiêng, chỉ dùng tham dự các buổi lễ quan trọng, như Ooc Om Bok. Sư cả và đồng bào trong phum sóc phải lựa chọn thanh niên cường tráng làm “Ch’rò-wa” (quân dầm bơi), đồng thời cử một người có uy tín trong phum sóc giữ vai trò chính “Chih-khbal” (người cầm lái) cùng “Yông-lith” (phụ lái) cho ghe. Ngồi cặp kè hai hàng dọc dài theo bên trong thân ghe, những chàng trai, cô gái Khmer mặc đồng phục đẹp, nhịp nhàng mái dầm theo tiếng còi hoặc tiếng cồng của người điều khiển.
Trong ánh nắng chói chang hoặc trong cơn mưa tầm tã, tiếng cồng, tiếng còi từng nhịp từng nhịp thắt tim vang lên cùng tiếng mái dầm thọc sâu xuống mặt nước ngầu bọt sóng, đưa chiếc ghe vượt lên phía trước trong tiếng hoan hô khích lệ vang dậy của hàng chục ngàn khán giả. Đua ghe ngo ngày nay được xem như một ngày hội chung của ba dân tộc Kinh – Khmer – Hoa, để mọi người vui chơi, thưởng thức cái đẹp, cái khỏe mạnh, hào hùng, tài nghệ điêu luyện của các tay bơi tranh tài trên sông, mang đậm tinh thần thể thao, đoàn kết, vui tươi. Cho nên, cuộc đua kéo dài tới xế chiều và tuy có phân định thắng thua nhưng các tay bơi đều vui vẻ, hân hoan trong tinh thần đoàn kết.
Xế chiều, nếu ở Sóc Trăng người ta đến hồ Nước Ngọt, còn ở Trà Vinh thì tập trung về Ao Bà Om tham dự lễ Cúng Trăng. Ao Bà Om là một thắng cảnh độc đáo của Trà Vinh nổi tiếng khắp Nam bộ từ hơn một thế kỷ nay.
Có câu hát rất phổ biến ở Trà Vinh nhằm ca ngợi hai thắng cảnh của địa phương này đến nay vẫn còn lưu truyền: “Biển Ba Động nước xanh cát trắng Ao Bà Om thắng cảnh miền Tây Xin mời du khách về đây Viếng qua thì biết chốn này thần tiên !”
Ao Bà Om thuộc khóm 3, phường 8, cách trung tâm TX.Trà Vinh khoảng 5 km, theo Quốc lộ 53 về phía Tây Nam. Trước kia, từ Quốc lộ 53 vào ao là mấy con đường mòn lầy lội mùa mưa, cát ngập mắt cá chân mùa nắng, quanh co xuyên qua các phum sóc ẩn mình trong bóng mát cây xanh. Từ nhiều năm nay, con đường vào ao đã được mở rộng, tráng nhựa phẳng phiu, có đường xe hai chiều, dãy phân cách trồng hoa cỏ xinh tươi. Ao Bà Om có hình chữ nhật nên thường được gọi là Ao Vuông, rộng khoảng 10 ha. Mặt nước ao trong xanh và phẳng lặng được phủ bởi sen, súng dập dờn cánh lá với những đóa hoa tinh khiết vươn cao nét đẹp. Bao bọc quanh ao là bốn gò cát cao, mấp mô với các hàng sao, dầu cổ thụ rợp che bóng mát. Hấp dẫn nhất là một số gốc đại thụ này nhô lên khỏi mặt đất, có nơi cao khỏi đầu người, với nhiều hình thù quái dị nhưng độc đáo không đâu có. Lại có nơi hai cây cổ thụ mọc gần nhau, cành nối cành tạo sự “liên thông”, gắn kết, cũng là nét kỳ lạ, khó nơi nào có được. Ao Bà Om được nhiều người sánh là Đà Lạt của Đồng bằng sông Cửu Long nhờ bốn hàng sao dầu đại thụ quanh ao lúc nào cũng rì rào nhạc lá, tạo không khí mát mẻ như mùa xuân. Ao Bà Om được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa vào ngày 25-8-1992.
Đêm lễ hội, bốn con đường đất bao bọc quanh Ao Bà Om, cả triền dốc bốn đường quanh ao và mặt đường quanh ao “phủ rợp” người là người. Kẻ ngồi từng nhóm, người thả bước dạo chơi hoặc thưởng thức các món ăn dân dã địa phương, cũng như mua sắm vật kỷ niệm bày bán khắp nơi. Sụp tối, các “nghệ sĩ chân đất” làm xôm tụ bởi các điệu múa lâm-thôn, hát rô-băm, hát dù-kê, hát à-day, thi đấu cờ ốc, đấu võ, kéo co, đi cà khêu, biểu diễn trang phục các dân tộc, ăn cốm dẹp đầu mùa… Tiếng trống xa-dăm, tiếng kèn, tiếng thanh la, não bạt khiến lòng bạn quên hết mọi ưu phiền, lo toan của cuộc sống mà hòa mình vào cuộc lễ rộn ràng, sôi nổi, vui tươi. Bạn sẽ quên mất mình là ai, cùng hòa bước chân trong điệu lâm-thôn đầy mê hoặc, trong điệu hát giao duyên trai gái à-day tình tứ…
Đêm vui Ooc Om Bok cứ thế diễn ra trong tiếng hát hòa trong tiếng các loại nhạc cụ, các điệu múa thành một “đêm trắng” lãng mạn lôi cuốn mọi người đến khó quên!
Theo Báo Hậu Giang
Nón lá, tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ Việt
Nón lá là biểu tượng cho sự dịu dàng, mộc mạc của người phụ nữ, đất nước con người Việt Nam.
Trên khắp mảnh đất mang hình chữ S, chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh chiếc nón lá ở bất cứ nơi đâu. Tuỳ vào mỗi vùng miền sẽ có cách làm nón khác nhau để phù hợp, nhưng nhìn chung mọi sự sáng tạo đều dựa trên một cách làm thủ công truyền thống và ý nghĩa tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ Việt.
Tôi lớn lên tại một miền quê nghèo Nam Bộ, hình ảnh chiếc nón lá – khăn rằn – áo bà ba đã in sâu vào tâm khảm tuổi thơ và trở thành hành trang bước vào đời. Phải nói rằng khăn rằn – nón lá – áo bà ba đã trở thành một liên kết tạo nên biểu trưng hoàn mỹ nhất cho vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết của người phụ nữ Nam Bộ… Chính vì thế từ trong thực tế cho đến những làn điệu dân ca, lời thơ, câu văn đều có bóng dáng nón gắn liền với người con gái Việt dịu dàng, gắn liền với người mẹ tảo tần mưa nắng.
“Quê hương là cầu tre nhỏ, Mẹ về nón lá nghiêng che”
Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào đời nhà Trần, khoảng thế kỉ thứ 13. Từ đó đến nay, nón luôn gắn bó với người dân Việt Nam như là hình với bóng. Nón lá không kén người dùng, không phân biệt giới tính, không phân biệt giàu, nghèo, già trẻ đều có thể đội. Nón ra đồng với nông dân, nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự, nón trên đầu những người lao động. Nó âm thầm lặng lẽ hiện diện trong cuộc sống của người Việt. Phải chăng như vậy mà nón đã từ lâu trở thành biểu tượng cho đất nước con người Việt Nam?
Trong đời sống hằng ngày, nón là một đồ dùng rất “thực dụng”. Nón lá ở nước ta dù có nhiều loại, song nét đặc thù chung là rộng vành để che mưa, che nắng và có mái dốc để thoát nước mưa nhanh. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm… Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận…
Ngoài điều đó, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp, làm duyên cho người phụ nữ và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt là đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Các cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, người ta gắn lên đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên kín đáo. Giữa kênh rạch, sông nước chằng chịt miệt vườn Nam Bộ, dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, những sợi tóc mai của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ… khiến ai đó đã phải ngẩn ngơ.
Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy được gọi là nón bài thơ.Trong chiếc nón bài thơ có biểu hiện những nét đẹp của cả một vùng văn hoá, người phụ nữ Huế khi ra đường, trang phục nhất thiết phải là chiếc áo dài và chiếc nón lá để đội đầu. Dù trời sáng sớm hay im mát, chiếc nón như là vật bất ly thân.
“Nón rất Huế nhưng đời không phải thế Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng”
Nón lá gắn liền với người mẹ tảo tần mưa nắng.
Chiếc nón lá theo người nông dân ra đồng, cùng tham gia quá trình lao động cho mùa màng bội thu, khi trời tắt gió, nón dùng để quạt cho mát, khi lật ngửa, dùng đựng mớ rau mới hái ngoài đồng, ít trái cây, múc nước… Ngày nay, chiếc nón lá đã trở thành một biểu tượng của người Việt trong mắt của bạn bè quốc tế. Nón lá luôn được dành vị trí trong hành lí của các du khách khi đến Việt Nam.
Đây là một trong những lựa chọn để làm quà tặng khách quốc tế
Chiếc nón lá đâu chỉ là vật tiện dụng mà còn là nét đẹp thầm kín của văn hóa Việt, sẽ còn tồn tại mãi dù cuộc sống có đổi thay, hiện đại đến đâu, chiếc nón lá vẫn sẽ mãi là người bạn của người Việt. Tôi chắc thế.
Từ lâu, vùng Bảy Núi (An Giang) thu hút nhiều du khách đến thăm không những vì đặc sản, phong cảnh, mà nơi đây còn được thu hút bỡi một lễ hội truyền thống, đó là lễ hội đua bò được tổ chức hằng năm vào dịp Tết Ðôn-ta (lễ cúng ông bà, tưởng nhớ tổ tiên) của đồng bào Khmer Nam Bộ, từ 29-8 đến mùng 1-9 âm lịch (tháng thiếu thì từ 29-8 đến mùng 2-9 âm lịch)
Ngày 27/2/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành quyết định phê duyệt đề án bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Hội đua bò Bảy Núi (2020-2025). Ảnh: Van Long Bui
Lễ hội đua bò là một trong những lễ hội lớn mang tính truyền thống của người Khơ-me, mang đậm mầu sắc dân gian, để biểu lộ lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với tổ tiên và công lao của những người đã khuất.
Trong lễ ”Đôn-ta” ngoài tập tục thả thuyền, sau khi đến chùa làm lễ rước vong linh ông bà tổ tiên về cùng chung vui với gia đình, người Khơ-me thường kết những bè chuối để làm thuyền, trên thuyền bày đủ các phẩm vật đã cúng, mỗi thứ một ít, sau đó đem thả xuống dòng nước cạnh nơi ở hoặc ao hồ, sông rạch gần nhà… Cũng vào dịp này, khách đến thăm phúm, sóc sẽ được bà con Khơ-me đón tiếp nồng hậu, tiếp đãi chu đáo. Vì họ quan niệm khách là sứ giả của tổ tiên về thăm gia đình, con cháu…
Người Khơ-me còn tổ chức hội đua bò truyền thống. Từ năm 1990 đến nay, Tết Ðôn-ta và lễ hội đua bò Bảy Núi ở An Giang đã được luân phiên tổ chức tại chùa Thamit, xã Vĩnh Trung, huyện Tịnh Biên và chùa Tà Miệt, huyện Tri Tôn.
Để chuẩn bị cho cuộc đua bò, họ chọn một khoảnh ruộng bằng phẳng, chiều dài chừng 200m, ngang 100m có nước xăm xắp, được “trục” xới nhiều lần cho có độ trơn của bùn, bốn bên có bờ bao và điểm đích có đoạn đường trống để làm độ dừng an toàn cho bò. Đoạn đường đua chính chỉ cần 120m theo khoảnh ruộng cặp sát bờ bao. Nơi xuất phát được cắm 2 cây cờ màu xanh, đỏ mỗi cây cách nhau 5m, và tại điểm đích cũng vậy. Đôi bò nào đứng ở vị trí cây cờ màu gì thì điểm đích cũng theo màu của cây cờ đó.
Trước khi vào cuộc đua, họ chọn từng đôi bò với nhau hoặc bốc thăm và thoả thuận một số qui định cần thiết như ai sẽ đi trước, đi sau… Nhưng thông thường đôi đi sau có phần ưu thế hơn. Nếu trong khi đua, đôi bò nào chạy tạt ra khỏi đường đua sẽ bị loại và đôi bò sau giẫm lên giàn bừa của đôi bò trước là thắng cuộc. Còn người điều khiển phải đứng thật vững nếu bị ngã hoặc rơi ra khỏi giàn bừa coi như thua cuộc.
Có bò còn được đeo cặp lục lạc vàng rực, rộn ràng những tiếng nhạc vui tai. Những “nài đua bò” được người dân địa phương gọi là người cầm vàm, sẽ điều khiển đôi bò trong cuộc đua. Ðôi bò phải kéo theo chiếc bừa cây và người cầm vàm đứng trên đó điều khiển.
Theo “luật chơi”, cặp bò nào chạy ra khỏi đường đua hay “nài bò” bị té khỏi bừa rơi xuống đất thì dù bò có về đích trước cũng bị thua… Ảnh: Van Long Bui
Từng đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài 90cm, bên dưới là răng bừa. Người điều khiển bò cầm roi mây hoặc khúc gỗ tròn vừa tay độ 3cm, đầu có tra cây đinh nhọn – cây xà-lul. Khi bắt đầu lệnh xuất phát của trọng tài, người điều khiển chích mạnh cây xà-lul vào mông con bò, bò bị đau phóng nhanh về phía trước, quan trọng là phải chích cho đều cả hai con thì vận tốc của đôi bò mới quyết liệt và hấp dẫn. Điều này có khác với đua ngựa ở chỗ là mỗi người cưỡi một con, ai về đích trước sẽ thắng cuộc. Người cầm vàm của đôi bò thắng cuộc sẽ được mọi người tôn vinh là người cầm vàm bò “can đảm” nhất vùng
Chỗ xem cũng không cần cầu kỳ như xem bóng đá, đua ngựa hay một số môn thể thao khác, chỉ cần đứng ở vị trí hơi cao so với mặt sân đua hay leo lên bờ bao là đủ. Từ lúc cuộc đua bắt đầu cho đến kết thúc không khí lúc nào cũng tưng bừng và hào hứng, tiếng vỗ tay, reo hò, sôi nổi cổ động dành cho những người điều khiển các đôi bò giỏi hoặc những pha về đích gay go, quyết liệt.
Về đây, không những được xem lễ đua bò vùng Bảy Núi, An Giang mà du khách được ngắm nhìn, thưởng ngoạn cảnh quan vùng sông nước Châu Ðốc, viếng thăm Tây An Cổ Tự và miếu bà Chúa Xứ, lăng cụ Thoại Ngọc Hầu, người có công lớn trong việc khai phá vùng đất An Giang và đào kênh Vĩnh Tế.
Dù không rộn ràng, náo nhiệt như ngày Tết cổ truyền nhưng Tết Đoan ngọ vẫn được lưu truyền và có một vị trí nhất định trong lòng người dân đất Việt.
Ăn Tết Đoan ngọ trở về tháng năm
Năm nay Tết Đoan ngọ rơi vào ngày 20/6 dương lịch. Có thể nói, đây là một trong những ngày Tết quan trọng trong tín ngưỡng dân gian. Không ai biết chính xác Tết Đoan ngọ có từ khi nào, chỉ nhớ thời xưa, khi nông dân ăn mừng vì trúng mùa thì rất nhiều sâu bọ kéo đến phá hoại. Giữa lúc bà con không biết làm gì thì có một ông lão xuất hiện. Theo lời ông, mỗi nhà hãy lập bàn cúng bánh ú tro, trái cây và vận động thể lực. Không ngờ sâu bọ hết thật! Trước khi đi, ông lão còn dặn, mỗi năm cứ đến ngày này phải làm như vậy- đó là ngày mùng 5 tháng 5 âl.
Cũng có nhiều gia đình giữ phong tục của gia đình, cứ đến mùng 5-5, bà sẽ bắt những con côn trùng (kiến, sâu, gián…) quanh nhà đem lên chảo nóng chiên. Kèm theo đó là những lời khấn tốt đẹp sẽ đến với gia đình, xóm làng. Bởi vậy, Tết Đoan ngọ còn được gọi với cái tên là ngày diệt sâu bọ.
Năm nào cũng vậy, cách mùng 5-5 một tuần, các khu chợ lại nhộn nhịp hẳn lên, nhất là khu vực bán hoa, trái cây. Sẽ thật là thiếu sót khi nhắc đến Tết Đoan ngọ, mà không nói về bánh ú lá tre – loại bánh luôn hiện diện trên các mâm cúng ông bà.
Không chỉ là dịp để mọi người nhớ đến tích xưa, mà còn dịp để nhiều gia đình tăng thêm thu nhập từ nghề gói bán ú nước tro.
Nghề gói bánh ú từ bà mình
Kế thừa nghề gói bánh ú từ bà mình, chị Bé Hai (TP. Long Xuyên) đã gắn bó với nó từ thời con gái. Ngày thường, chị vẫn gói bánh ú tro (bánh ú lá tre) để bán. Tuy nhiên, số lượng bán tăng hơn nhiều khi Tết nửa năm đến. Hơn một tuần nay, mọi người đến đặt hàng rất đông. Có người đặt mua đến 700 cái bánh. Tất nhiên, giá bán vẫn không thay đổi dù là ngày Tết. Ngoài việc để cúng, loại bánh này có vị thanh mát. Nguyên liệu bánh chỉ là đậu xanh và nếp ngâm nước tro nên hợp khẩu vị nhiều người.
Ở thành thị đôi khi vì công việc nên Tết Đoan ngọ trông không rơm rả như ở vùng quê. Về những vùng nông thôn, người dân ăn mừng Tết Đoan ngọ rôm rả hơn nhiều. Tôi nhớ khi còn bé, cứ đến mùng 5 tháng 5 thì anh em chúng tôi được ba mẹ mua cho quần áo đẹp đi viếng ông bà. Mẹ đi chợ mua thật nhiều đồ về cúng như Tết Nguyên đán vậy.
Thường, mâm cơm cúng mùng 5 được mọi người dọn lên vào giờ trưa. Sau khi người có vai vế lớn nhất cúng lạy mới tới con cháu. Sau nghi thức cúng, mọi người sẽ cùng ngồi lại thưởng thức bữa cơm gia đình ấm áp, yêu thương.
Qua thăng trầm cuộc sống, Tết Đoan ngọ ngày nay có đôi chút khác xưa. Song, niềm mong ước, những ý nghĩa tốt đẹp mà nó mang lại vẫn là những giá trị không gì thay thế được.
Lễ hội Ooc Om Bok Nam Bộ
Lễ hội Ooc Om Bok, còn được gọi là Phochia Praschanh som paes khee, là lễ Cúng Trăng. Lễ hội này diễn ra hầu như khắp các tỉnh có đồng bào dân tộc Khmer cư ngụ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng lớn nhất và được biết nhiều nhất là ở TP.Sóc Trăng (Sóc Trăng). Vài năm qua, lễ hội này đã được tổ chức tại TX.Trà Vinh (Trà Vinh), TP.Rạch Giá (Kiên Giang), Ô Môn (TP.Cần Thơ)
Bên cạnh Giải đua ghe ngo truyền thống, Tuần lễ hội Ooc Om Bok còn diễn ra nhiều hoạt động phong phú như: Hội chợ nông nghiệp; Hội diễn nghệ thuật quần chúng và trình diễn trang phục Khmer; Liên hoan ẩm thực đường phố; Liên hoan trích đoạn Sân khấu Dù kê và Rô băm của đồng bào Khmer; Hội thi thả đèn nước: biểu diễn ghe Kà Hâu…
Trong vô số lễ hội quanh năm của đồng bào dân tộc Khmer, có ba lễ hội quan trọng là Chol Chnam Thmay, Dolta và Ooc Om Bok. Nhưng lễ hội Ok Om Bok được tổ chức rôm rả hơn cả.
Lễ hội Ooc Om Bok ở các nơi thường được bắt đầu bằng cuộc đua ghe ngo (“Um Tuk Ngua”). Ghe ngo dài khoảng 24 m, ngang 1,2 m, làm từ thân cây sao khoét ruột, giống hình rắn thần Nagar – linh vật của người Khmer. Ghe chứa khoảng 40 tay chèo. Mũi và lái ghe uốn cong. Thân ghe trang trí hoa văn sặc sỡ. Hoa văn đẹp đẽ này còn được chăm chút trên từng cây dầm. Người Khmer coi ghe ngo là vật quý, linh thiêng, chỉ dùng tham dự các buổi lễ quan trọng, như Ooc Om Bok. Sư cả và đồng bào trong phum sóc phải lựa chọn thanh niên cường tráng làm “Ch’rò-wa” (quân dầm bơi), đồng thời cử một người có uy tín trong phum sóc giữ vai trò chính “Chih-khbal” (người cầm lái) cùng “Yông-lith” (phụ lái) cho ghe. Ngồi cặp kè hai hàng dọc dài theo bên trong thân ghe, những chàng trai, cô gái Khmer mặc đồng phục đẹp, nhịp nhàng mái dầm theo tiếng còi hoặc tiếng cồng của người điều khiển.
Trong ánh nắng chói chang hoặc trong cơn mưa tầm tã, tiếng cồng, tiếng còi từng nhịp từng nhịp thắt tim vang lên cùng tiếng mái dầm thọc sâu xuống mặt nước ngầu bọt sóng, đưa chiếc ghe vượt lên phía trước trong tiếng hoan hô khích lệ vang dậy của hàng chục ngàn khán giả. Đua ghe ngo ngày nay được xem như một ngày hội chung của ba dân tộc Kinh – Khmer – Hoa, để mọi người vui chơi, thưởng thức cái đẹp, cái khỏe mạnh, hào hùng, tài nghệ điêu luyện của các tay bơi tranh tài trên sông, mang đậm tinh thần thể thao, đoàn kết, vui tươi. Cho nên, cuộc đua kéo dài tới xế chiều và tuy có phân định thắng thua nhưng các tay bơi đều vui vẻ, hân hoan trong tinh thần đoàn kết.
Xế chiều, nếu ở Sóc Trăng người ta đến hồ Nước Ngọt, còn ở Trà Vinh thì tập trung về Ao Bà Om tham dự lễ Cúng Trăng. Ao Bà Om là một thắng cảnh độc đáo của Trà Vinh nổi tiếng khắp Nam bộ từ hơn một thế kỷ nay.
Có câu hát rất phổ biến ở Trà Vinh nhằm ca ngợi hai thắng cảnh của địa phương này đến nay vẫn còn lưu truyền: “Biển Ba Động nước xanh cát trắng Ao Bà Om thắng cảnh miền Tây Xin mời du khách về đây Viếng qua thì biết chốn này thần tiên !”
Ao Bà Om thuộc khóm 3, phường 8, cách trung tâm TX.Trà Vinh khoảng 5 km, theo Quốc lộ 53 về phía Tây Nam. Trước kia, từ Quốc lộ 53 vào ao là mấy con đường mòn lầy lội mùa mưa, cát ngập mắt cá chân mùa nắng, quanh co xuyên qua các phum sóc ẩn mình trong bóng mát cây xanh. Từ nhiều năm nay, con đường vào ao đã được mở rộng, tráng nhựa phẳng phiu, có đường xe hai chiều, dãy phân cách trồng hoa cỏ xinh tươi. Ao Bà Om có hình chữ nhật nên thường được gọi là Ao Vuông, rộng khoảng 10 ha. Mặt nước ao trong xanh và phẳng lặng được phủ bởi sen, súng dập dờn cánh lá với những đóa hoa tinh khiết vươn cao nét đẹp. Bao bọc quanh ao là bốn gò cát cao, mấp mô với các hàng sao, dầu cổ thụ rợp che bóng mát. Hấp dẫn nhất là một số gốc đại thụ này nhô lên khỏi mặt đất, có nơi cao khỏi đầu người, với nhiều hình thù quái dị nhưng độc đáo không đâu có. Lại có nơi hai cây cổ thụ mọc gần nhau, cành nối cành tạo sự “liên thông”, gắn kết, cũng là nét kỳ lạ, khó nơi nào có được. Ao Bà Om được nhiều người sánh là Đà Lạt của Đồng bằng sông Cửu Long nhờ bốn hàng sao dầu đại thụ quanh ao lúc nào cũng rì rào nhạc lá, tạo không khí mát mẻ như mùa xuân. Ao Bà Om được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa vào ngày 25-8-1992.
Đêm lễ hội, bốn con đường đất bao bọc quanh Ao Bà Om, cả triền dốc bốn đường quanh ao và mặt đường quanh ao “phủ rợp” người là người. Kẻ ngồi từng nhóm, người thả bước dạo chơi hoặc thưởng thức các món ăn dân dã địa phương, cũng như mua sắm vật kỷ niệm bày bán khắp nơi. Sụp tối, các “nghệ sĩ chân đất” làm xôm tụ bởi các điệu múa lâm-thôn, hát rô-băm, hát dù-kê, hát à-day, thi đấu cờ ốc, đấu võ, kéo co, đi cà khêu, biểu diễn trang phục các dân tộc, ăn cốm dẹp đầu mùa… Tiếng trống xa-dăm, tiếng kèn, tiếng thanh la, não bạt khiến lòng bạn quên hết mọi ưu phiền, lo toan của cuộc sống mà hòa mình vào cuộc lễ rộn ràng, sôi nổi, vui tươi. Bạn sẽ quên mất mình là ai, cùng hòa bước chân trong điệu lâm-thôn đầy mê hoặc, trong điệu hát giao duyên trai gái à-day tình tứ…
Đêm vui Ooc Om Bok cứ thế diễn ra trong tiếng hát hòa trong tiếng các loại nhạc cụ, các điệu múa thành một “đêm trắng” lãng mạn lôi cuốn mọi người đến khó quên!
Chùa Khmer không yên tĩnh như nhiều người nghĩ. Những ngày lễ lớn như Chôl Chnăm Thmây (Tết cổ truyền), Ok Om Bok (Lễ cúng trăng) hay Sen Dolta (Lễ cúng ông bà), sân chùa rộn ràng tiếng trống, tiếng hát dân gian, những bộ trang phục truyền thống sặc sỡ và cả tiếng cười của trẻ con chạy nhảy.
Chôl Chnăm Thmây (Tết cổ truyền)
Không gian chùa cũng là nơi người lớn họp bàn việc chung, nơi người trẻ tập múa Romvong, nơi các nghệ nhân dạy lại cách khắc gỗ, đắp phù điêu, hay viết chữ Khmer lên kinh kệ. Những thứ tưởng đã cũ kỹ lại được truyền đi từng ngày, trong chính nếp sinh hoạt quen thuộc.
Với người ngoài, chùa là điểm đến du lịch. Nhưng với người Khmer ở An Giang, chùa là nơi gìn giữ linh hồn. Không phải vì nó cổ kính hay nguy nga, mà bởi vì nó vẫn sống cùng với người dân.
Ngôn ngữ, tín ngưỡng và đời sống thường ngày của người Khmer
Về xứ An Giang, không quá lạ để bạn có thể nghe tiếng Khmer vang lên trong cuộc trò chuyện giữa hai người bán rau ngoài chợ, trong lớp học mẫu giáo, hay ở một buổi tụng kinh trong chùa vào sáng sớm. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp – với người Khmer, đó còn là cách giữ gìn gốc rễ, là niềm tự hào và cũng là sợi dây nối liền giữa thế hệ trước và thế hệ ngày nay.
Phần lớn người Khmer ở An Giang theo Phật giáo Nam tông, nên đời sống tinh thần gắn chặt với ngôi chùa. Chùa không chỉ là nơi thờ tự, mà còn là trung tâm văn hóa, giáo dục và sinh hoạt cộng đồng. Trẻ con học chữ Khmer từ sư thầy, người lớn gửi gắm niềm tin vào các dịp lễ như Pchum Ben, Chol Chnam Thmay hay Ok Om Bok. Mỗi dịp lễ hội là một lần cả cộng đồng quây quần, cùng chuẩn bị bánh trái, trang hoàng phum sóc, cùng cầu an, cúng tổ tiên và nhắc nhau về những điều tốt lành.
Trang phục độc đáo, đặc sắc của người Khmer
Tín ngưỡng và ngôn ngữ dường như hoà quyện trong từng nếp sống. Dù là ngày thường, bạn vẫn có thể thấy người Khmer chắp tay chào nhau bằng sự kính trọng, hay rì rầm đọc vài câu kinh khi bước vào chùa. Mỗi hành động nhỏ đều thấp thoáng bóng dáng của một nền văn hóa đã được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Giữa dòng chảy hiện đại, người Khmer ở An Giang vẫn duy trì được nhịp sống riêng đầy độc đáo và thú vị.
Lễ hội Khmer – dịp để vui, để nhớ, để sống gần nhau hơn
Lễ hội luôn là phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Khmer ở An Giang. Mỗi dịp lễ không chỉ mang ý nghĩa tín ngưỡng mà còn là lúc cộng đồng quây quần, chia sẻ niềm vui và giữ lại mối liên kết với tổ tiên, với quê hương và với nhau.
Chol Chnam Thmay – Tết cổ truyền của người Khmer, thường rơi vào tháng 4 dương lịch là lễ lớn nhất trong năm. Những ngày này, phum sóc rộn ràng từ sáng sớm, nhà nhà dọn dẹp, chùa chiền trang hoàng, người dân nô nức về chùa làm lễ. Tiếng trống, tiếng tụng kinh vang lên đều đặn, xen lẫn tiếng cười con trẻ chơi té nước, đắp núi cát – vừa vui chơi, vừa gìn giữ phong tục cổ xưa.
Tết Chol Chnam Thmay ở An Giang
Sen Dolta, diễn ra vào khoảng tháng 9 âm lịch, là lễ cúng ông bà tổ tiên. Vào ngày này, nhiều gia đình người Khmer sum họp, chuẩn bị mâm cơm dâng cúng, rồi cùng nhau về chùa làm lễ. Đó là lúc người đi xa trở về, người còn sống tưởng nhớ người đã khuất như một hình thức giữ gìn đạo lý truyền thống qua nhiều thế hệ.
Lễ Sen Dolta của đồng bào Khmer
Ok Om Bok – lễ cúng trăng cuối năm, diễn ra vào tháng 10 âm lịch, là dịp tạ ơn trời đất sau mùa vụ. Nhiều nơi còn tổ chức đua ghe ngo, thu hút cả cộng đồng cùng tham gia và cổ vũ. Đó là lúc không khí hội hè lên cao, rộn ràng mà vẫn đầy tính kết nối.
Lễ hội Ok Om Bok
Dù sống ở nông thôn hay đô thị, người Khmer ở An Giang vẫn gìn giữ lễ hội như một phần máu thịt. Lễ là dịp để vui nhưng cũng là để nhớ, để gắn bó với nhau hơn trong đời sống cộng đồng. Mỗi năm đi qua, mỗi lễ hội trở lại như một lời nhắc nhẹ nhàng rằng: văn hóa không nằm trên sách vở, mà sống giữa đời thường.
Giữ lửa nghề, giữ bản sắc
Ở nhiều phum sóc Khmer tại An Giang, vẫn còn những người kiên trì với nghề truyền thống – không phải để mưu sinh chính, mà để giữ một phần ký ức. Nghề dệt thổ cẩm, làm bánh dân gian, điêu khắc gỗ, làm nhạc cụ… tuy không còn phổ biến như trước nhưng vẫn hiện diện, âm thầm và bền bỉ.
Tại xã Châu Phong (TX. Tân Châu), nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm (thuộc cộng đồng Khmer) vẫn âm thầm tồn tại qua bao thế hệ. Nghề này đã trở thành một phần ký ức sống, nơi người trẻ cũng học từ người già cách giữ từng hoa văn, từng sắc màu vốn gắn liền với văn hóa quê hương.
Những hoa văn truyền thống trở thành biểu tượng văn hóa, được truyền lại qua nhiều thế hệ. Đôi tay thoăn thoắt, nhịp thoi đều đặn, mỗi tấm vải hoàn thành là cả một câu chuyện về sự kiên trì, cẩn trọng và niềm tự hào.
Tinh hoa thổ cẩm Khmer
Ngoài dệt, nghề làm bánh dân gian như bánh tét lá cẩm, bánh ít, bánh gừng vẫn được truyền lại trong các gia đình. Người lớn tuổi dạy con cháu không chỉ cách làm, mà còn cách gói sao cho vuông vức, chín đều, thơm dẻo như cách truyền lại lòng kiên nhẫn và nét đẹp tổ tiên.
Nghề làm bánh gừng
Một số nghệ nhân còn duy trì nghề làm nhạc cụ truyền thống như trống, chiêng, khèn… phục vụ các dịp lễ hội lớn như Chol Chnam Thmay hay lễ Sen Dolta. Những âm thanh ấy không chỉ dùng để múa hát, mà còn gợi nhớ cội nguồn và kết nối cộng đồng.
Người làm nhạc cụ truyền thống Khmer
Giữa thời đại mà máy móc thay thế dần lao động thủ công, người Khmer ở An Giang vẫn chọn cách giữ nghề như giữ lấy một phần bản sắc. Họ không chỉ làm ra sản phẩm, mà còn gìn giữ một đời sống văn hóa để thế hệ sau còn thấy được mình đến từ đâu.
Văn hoá giao thoa nhiều nếp sống
Ở An Giang, người Khmer không sống tách biệt mà hòa cùng nhịp thở chung của cả vùng. Phum sóc người Khmer nằm cạnh làng Kinh, người Chăm dệt vải bên kia bờ kênh, người Hoa mở tiệm thuốc hay quán ăn ngay sát chợ… Tất cả cùng chia sẻ không gian, cùng sinh hoạt, cùng đi chợ sớm, cùng tham gia các lễ hội lớn nhỏ.
Đi dọc tuyến đường vùng biên, không khó để thấy những biểu tượng văn hóa đan xen: mái chùa Khmer vàng rực giữa cánh đồng, bên kia là miếu Bà Chúa Xứ; trẻ con đến trường cùng nhau, về nhà lại cùng chơi một trò dân gian mà chẳng ai để ý ai thuộc dân tộc nào. Mỗi cộng đồng đều giữ nếp riêng, nhưng vẫn cởi mở để cùng nhau sống tốt.
Văn hóa Khmer ở An Giang không chỉ là những giá trị để trưng bày hay ghi nhớ, mà là đời sống đang diễn ra mỗi ngày. Từ tiếng trống chùa, đường kim dệt vải, đến những buổi lễ rộn ràng trong phum sóc tất cả vẫn hiện diện, vẫn sống động, vẫn được gìn giữ và tiếp nối một cách tự nhiên. Chính cách sống bình dị, tôn trọng nhau trong từng điều nhỏ đã giúp cho vùng đất An Giang giữ được sự đa dạng văn hóa.
Một bản sắc đang sống, không chỉ còn lại trong ký ức
Giữa sự đổi thay nhanh chóng của đô thị và đời sống hiện đại, đồng bào Khmer nơi đây vẫn giữ được mạch văn hóa riêng. Đồng thời, góp phần làm giàu cho diện mạo văn hóa chung của An Giang. Đó không phải là nỗ lực đơn độc, mà là sự cộng hưởng giữa cộng đồng và chính vùng đất đã ôm ấp họ từ bao đời.
Và nếu có dịp đến An Giang, đừng chỉ đi qua những điểm nổi tiếng. Hãy dành thời gian dừng lại ở một phum sóc Khmer, bước vào một ngôi chùa, xem bà con dệt vải, nghe trẻ nhỏ nói tiếng mẹ đẻ. Bạn sẽ thấy, di sản đôi khi không nằm trong bảo tàng mà trong nếp sống thường ngày, trong ánh mắt và nụ cười những con người đang gìn giữ bản sắc ấy từng ngày.
Không phải ngẫu nhiên mà người Chăm ở An Giang chọn sống trên những ngôi nhà sàn. Giữa vùng đất thấp, mùa nước nổi về là chuyện thường niên, nhà sàn vừa là cách để thích nghi, vừa là biểu hiện cho một lối sống đã ăn sâu vào nếp nghĩ. Nhà được dựng cao, khung gỗ đơn giản, mái lợp tôn hoặc lá, sàn gỗ hoặc tre nứa đủ chắc chắn để sống, đủ thoáng để nghỉ ngơi trong cái oi ả của miền Tây.
Tầng dưới thường để trống, có khi là chỗ nuôi gia súc, gia cầm, có khi là nơi để xuồng, để nông cụ, hay chỉ là khoảng mát để tránh nắng trưa. Tầng trên là nơi ở, nơi sinh hoạt, nơi tiếp khách. Mọi thứ được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ và tôn trọng sự kín đáo, điều quan trọng trong văn hóa Hồi giáo mà người Chăm An Giang theo đuổi.
Làng Chăm cồn Tiền (An Giang)
Nhà sàn không chỉ là nơi che nắng che mưa, mà còn là không gian gắn kết con người với cộng đồng. Nhà thường dựng gần nhau, sân nối sân, hiên nối hiên, bước vài bước là tới thánh đường. Trong một không gian như thế, mọi hoạt động từ bữa cơm, lễ cầu nguyện, cho tới tiếng trẻ con chơi đùa đều đan xen nhau, tạo thành một nếp sống đầy gắn bó và ấm áp.
Cuộc sống người Chăm An Giang gắn liền với sông nước
Với người Chăm ở An Giang, dòng sông Hậu là một phần trong nhịp sống. Những con xuồng nhỏ lướt nhẹ trên dòng nước phù sa, chở theo rau trái ra chợ, chở những đứa trẻ đến trường, hay chỉ đơn giản là ghé sang nhà kế bên trò chuyện dăm ba câu. Sông là đường đi, là nguồn sống, là nơi khởi đầu và kết nối mọi sinh hoạt của cộng đồng.
Nghề đi ghe của người Chăm
Phụ nữ Chăm ở An Giang thường đảm nhận vai trò đi chợ, chăm sóc gia đình, chăn nuôi và làm thêm nghề tay trái tại nhà. Có những thời điểm, nghề dệt vải thủ công từng phát triển mạnh, gần như nhà nào cũng có khung cửi. Họ dệt nên những tấm vải hoa văn truyền thống mang đi bán khắp miền Tây, thậm chí xuất khẩu sang Malaysia, Indonesia hay Campuchia. Dù nay không còn phổ biến như xưa, nghề dệt vẫn còn sống lặng lẽ ở một số làng nghề như Phũm Soài (Tân Châu) hay Đa Phước (An Phú) như một nếp xưa vẫn được gìn giữ trong từng sợi vải.
Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm
Trong khi đó, đàn ông giữ vai trò dẫn dắt tinh thần từ việc hành lễ tại thánh đường, học kinh đến việc dạy con cái theo giáo lý Islam. Mỗi người một phần việc, tưởng như phân chia rạch ròi, nhưng thực chất lại gắn bó chặt chẽ trong đời sống gia đình và cộng đồng. Người Chăm An Giang cũng có những quy tắc ẩm thực riêng: tuyệt đối không ăn thịt heo, luôn đảm bảo thức ăn sạch và đúng giáo luật. Ngày thường, bữa cơm đơn giản, thanh đạm.
Đặc sản món ăn “tung lò mò” của đồng bào Chăm
Nhưng vào dịp lễ, Tết hoặc các sự kiện tôn giáo, ẩm thực lại phong phú. Từ cà ri bò, cơm nị, cà púa đến món “tung lò mò”, một loại lạp xưởng bò đặc trưng được chế biến kỳ công. Những chiếc bánh truyền thống như pây-krah, thon-dót, ha-phùm… được phụ nữ Chăm làm ra không chỉ để ăn, mà còn để gìn giữ vị quê nhà, lưu giữ hương vị của một cộng đồng có bề dày văn hóa. Tất cả thuộc về người Chăm An Giang từ nghề dệt, cách ăn uống, vai trò gia đình đến lối đi chợ bằng xuồng đều dệt nên một nhịp sống bền bỉ, mộc mạc nhưng giàu bản sắc, đậm chất sông nước miền Tây.
Không gian văn hóa thánh đường
Giữa những xóm nhà sàn mộc mạc ven sông, thánh đường Hồi giáo hiện lên như một điểm tụ linh thiêng và gắn kết cộng đồng. Không lộng lẫy, cầu kỳ, các thánh đường của người Chăm ở An Giang thường có kiến trúc đơn giản, thoáng đãng, với mái vòm, cửa cuốn và tông màu trắng làm chủ đạo.
Mỗi ngôi thánh đường đều là trung tâm tinh thần, nơi diễn ra các buổi hành lễ, học kinh, sinh hoạt tôn giáo và truyền dạy đạo lý. Vào dịp lễ lớn như tháng Ramadan hay Tết Raya Idilfitri, thánh đường lại đông đúc và rộn ràng hơn bao giờ hết. Người người trong trang phục truyền thống tề tựu, cầu nguyện, chia sẻ thức ăn, chúc tụng nhau những điều tốt lành.
Ở An Giang, có nhiều thánh đường đã trở thành một phần không thể tách rời trong ký ức người Chăm An Giang. Nổi bật là Masjid Mubarak ở xã Châu Phong (Tân Châu), một trong những thánh đường lâu đời nhất. Xây dựng từ đầu thế kỷ 19, nơi vẫn đều đặn vang lên lời kinh giữa khung cảnh đồng bằng lặng lẽ.
Thánh đường Masjid Mubarak ở xã Châu Phong
Thánh đường Jamiul Azhar ở Đa Phước (An Phú) lại là nơi sinh hoạt của một cộng đồng đông đảo hơn, giữ nếp sinh hoạt tôn giáo rất chặt chẽ. Còn ở Phũm Soài, nơi vẫn còn lưu giữ nghề dệt thủ công truyền thống, thánh đường Masjid Khairul Ummah vừa là điểm tựa tinh thần, vừa là nơi trẻ em học chữ Ả Rập, học cách giữ đạo và sống tử tế.
Thánh đường Jamiul Azhar
Không chỉ là nơi giữ đạo, thánh đường còn là nơi giữ nếp sống cộng đồng của người Chăm An Giang. Trong một thế giới ngày càng vội vã, không gian thánh đường của người Chăm vẫn giữ được nhịp chậm rãi và sự trang nghiêm vốn có như một chốn trở về cho tinh thần sau mỗi vòng quay mưu sinh.
Chiếc khăn Matra – Nét đẹp của phụ nữ Chăm ở An Giang
Đối với người Chăm An Giang, chiếc khăn Matra không chỉ là một món phụ kiện đội đầu. Đó là một phần trong căn tính văn hóa, là biểu tượng của nếp sống đạo hạnh, sự chỉn chu và lòng tự trọng của một người phụ nữ trong cộng đồng.
Biểu tượng nét đẹp của người phụ nữ Chăm
Khăn Matra thường được quấn gọn, đơn giản nhưng vẫn tạo nét duyên kín đáo. Mỗi cách quấn thể hiện sự khéo léo và tính cách riêng, không phô trương nhưng tôn lên vẻ đẹp dịu dàng và thanh lịch của người phụ nữ Chăm. Họ đội khăn đi chợ, đi lễ, làm việc nhà – như một phần thân quen không thể thiếu trong đời sống hằng ngày.
Chiếc khăn Matra trong văn hóa trang phục
Dù cuộc sống nay đã nhiều đổi thay, nhưng chiếc khăn ấy vẫn là một mảnh ghép không thể thiếu trong hành trang văn hóa, như một sự giữ gìn thầm lặng của những người phụ nữ luôn đặt sự tự tôn và lòng thành kính với truyền thống lên hàng đầu.
Một nhịp riêng trong lòng An Giang đa sắc
Giữa lòng An Giang, nơi giao thoa của nhiều dòng chảy văn hóa, người Chăm chọn cho mình một nhịp sống riêng, bền bỉ mà không biệt lập. Họ không ồn ào quảng bá bản sắc, cũng chẳng cần phải cố gắng nổi bật giữa đám đông. Chính sự lặng lẽ đó lại là nét cuốn hút đặc biệt, khiến ai từng một lần ghé thăm những xóm Chăm ven sông Hậu đều ghi nhớ.
Từ kiến trúc nhà sàn, nếp sinh hoạt theo mùa nước nổi, tiếng cầu kinh vang lên mỗi chiều, đến một chiếc khăn Matra giản dị hay món tung lò mò thơm nồng. Tất cả tạo nên một cộng đồng vừa riêng biệt, vừa hài hòa trong tổng thể đa sắc của vùng đất đầu nguồn.
Người Chăm An Giang học cách thích nghi, thay đổi, song vẫn giữ được cái lõi trong văn hóa đã gắn bó với bao thế hệ. Và có lẽ, chính điều đó khiến sự hiện diện của họ trên mảnh đất An Giang này không chỉ là một phần của dân số, mà còn là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của vùng đất này.
DU LỊCH
Du lịch Tiền Giang: Khám phá miền Tây trọn vẹn trong một vùng đất
Nằm bên dòng sông Tiền hiền hòa, Tiền Giang là vùng đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi với phù sa màu mỡ, miệt vườn trĩu quả và nhịp sống đậm chất miền Tây. Không chỉ là miền quê yên ả, nơi đây còn là cửa ngõ kinh tế – văn hóa năng động của đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi hành trình du lịch Tiền Giang đều mang đến trải nghiệm mộc mạc, chân thành và đậm hồn sông nước.
Vị trí và đặc điểm tự nhiên của Tiền Giang
Tiền Giang nằm ở cửa ngõ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp trực tiếp với TP. Hồ Chí Minh, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp và biển Đông. Đây là một trong những tỉnh có lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý, vừa thuận lợi cho giao thương vừa giữ vai trò “cầu nối” giữa trung tâm kinh tế phía Nam và các tỉnh miền Tây.
Dòng sông Tiền chia đôi mảnh đất, tạo nên hệ thống sông rạch chằng chịt, mang phù sa bồi đắp quanh năm cho những vùng canh tác màu mỡ. Đặc biệt, với hơn 30km bờ biển trải dài theo huyện Gò Công Đông, Tiền Giang còn có thêm nguồn lợi thủy sản phong phú và tiềm năng phát triển kinh tế biển.
Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình chỉ từ 0,6 đến 1,2 mét so với mực nước biển, rất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp. Khí hậu ở đây mang đặc trưng nhiệt đới gió mùa, chia hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, nhưng nhìn chung ôn hòa và ổn định. Mỗi năm, Tiền Giang đón nhận lượng mưa lớn và nhiều nắng, rất thích hợp để trồng cây ăn trái, lúa nước và nuôi trồng thủy sản.
Chính sự hài hòa giữa sông – đất – khí hậu ấy đã tạo nên một vùng đất trù phú, nơi con người có thể gắn bó với nghề nông từ đời này sang đời khác. Cũng nhờ đó mà du lịch Tiền Giang có thêm điểm cộng, khi du khách không chỉ được ngắm cảnh mà còn có thể tham gia vào đời sống nông nghiệp địa phương.
Đời sống và con người nơi đất ngọt
Nếu sông Tiền mang phù sa nuôi dưỡng đất đai màu mỡ, thì chính con người Tiền Giang là “người giữ hồn” cho mảnh đất này thêm phần sinh động và bền vững. Cuộc sống ở đây xoay quanh mùa nước, mùa cây trái, mùa lễ hội, tất cả tạo nên một nhịp sống chan hòa với thiên nhiên, không vội vã nhưng đầy sức sống.
Người Tiền Giang vốn nổi tiếng chất phác, hiền hậu và cần cù. Họ quen với nếp sống lấy đất làm gốc, lấy sông làm bạn. Từ sáng sớm, chợ quê đã tấp nập cảnh mua bán – phần lớn là nông sản nhà trồng, cá tôm tự bắt. Những buổi chiều, ta dễ bắt gặp cảnh người lớn ngồi nhẩn nha bên quán nước nhỏ, trẻ con chơi đùa trên bãi đất ven sông bình yên và mộc mạc đến lạ.
Dù sinh sống ở vùng nông thôn hay ven đô thị, cộng đồng ở Tiền Giang vẫn gìn giữ được những giá trị truyền thống. Tình làng nghĩa xóm luôn hiện hữu qua những buổi giỗ họ, những lần cùng nhau dựng nhà, hoặc đơn giản chỉ là thói quen chia sẻ mớ rau, con cá. Không quá màu mè, sự thân tình ấy tạo nên một nét văn hóa ứng xử đặc trưng của miền sông nước. Cũng chính điều này, khiến nhiều người tìm kiếm khi chọn du lịch Tiền Giang như một hành trình nghỉ dưỡng nhẹ nhàng.
Đặc biệt, người Tiền Giang có tinh thần đổi mới mạnh mẽ. Nhiều người trẻ sau khi học tập ở thành phố đã quay về quê hương để khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái hoặc phát triển các sản phẩm OCOP từ chính đặc sản địa phương. Đó là dấu hiệu tích cực cho thấy một vùng đất không chỉ giàu về tài nguyên mà còn dồi dào nguồn lực con người.
Văn hóa và ẩm thực đậm chất miền Tây
Tiền Giang, như nhiều tỉnh miền Tây khác, là nơi văn hóa gắn chặt với đời sống sông nước – từ tập tục sinh hoạt đến phong cách ẩm thực và những lễ hội dân gian. Nơi đây có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa: người Kinh, người Hoa, người Khmer… tạo nên một bức tranh đời sống vừa đa dạng vừa hòa hợp.
Các lễ hội truyền thống là nét đặc trưng tiêu biểu trong đời sống tinh thần của người Tiền Giang. Nổi bật trong đó là Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ, Lễ hội Nghinh Ông, hay các lễ cúng đình, cúng miễu rải rác khắp các làng quê. Những dịp lễ không chỉ là thời điểm tâm linh, mà còn là cơ hội để người dân hội tụ, kết nối cộng đồng, cùng vui chơi, ca hát, diễn tuồng, đờn ca tài tử – loại hình nghệ thuật đã ăn sâu vào đời sống của người miền Tây.
Nhắc đến Tiền Giang mà không nhắc đến ẩm thực thì thật thiếu sót. Mảnh đất trù phú này nổi danh với các loại trái cây ngon: sầu riêng Cai Lậy, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim, xoài cát Hòa Lộc, mít Tân Phước… không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều quốc gia.
Bên cạnh đó, du lịch Tiền Giang còn níu chân du khách bằng những món ăn dân dã mà đậm đà khó quên: hủ tiếu Mỹ Tho thơm ngọt nước xương, cá lóc nướng trui, bánh vá, chuối nếp nướng, hay những món ăn được chế biến ngay trên ghe, tại các chợ nổi. Mỗi món ăn không chỉ là hương vị mà còn là một phần văn hóa mang theo nếp sống, thói quen, và cả sự sáng tạo trong cách người dân nơi đây tận dụng nguồn sản vật địa phương.
Ẩm thực Tiền Giang không phô trương mà mộc mạc, nhưng chính sự mộc mạc ấy lại khiến người ta nhớ mãi, bởi nó gắn với khung cảnh làng quê, với sự chân thành và hiếu khách vốn là đặc trưng của miền Tây sông nước.
Những điểm du lịch Tiền Giang không thể bỏ lỡ
Không chỉ có thiên nhiên trù phú và đời sống đậm chất miệt vườn, Tiền Giang còn sở hữu nhiều điểm đến hấp dẫn mà bất kỳ ai ghé qua cũng nên một lần dừng lại.
Chợ nổi Cái Bè là một trong những biểu tượng văn hóa sông nước đặc trưng của vùng đất này. Dù không còn sầm uất như xưa, chợ nổi vẫn giữ nguyên nét sinh hoạt đặc trưng với cảnh mua bán trên ghe, tàu, đặc sản địa phương và cả những tiếng rao hàng thân quen mỗi buổi sáng sớm. Đây cũng là nơi lý tưởng để du khách cảm nhận được nhịp sống miền Tây theo cách chân thật nhất, một trải nghiệm đặc biệt trong bất kỳ hành trình du lịch Tiền Giang nào.
Nếu yêu thích không gian miệt vườn, bạn có thể tìm đến cù lao Tân Phong, nằm giữa sông Tiền, nơi có những vườn trái cây sum suê, xanh mát quanh năm. Trải nghiệm đi xuồng ba lá, thưởng thức trái cây tươi, nghe đờn ca tài tử và dùng bữa trong không gian quê nhà, tất cả sẽ mang lại cảm giác thư thái khó quên.
Tiền Giang cũng có những điểm đến tâm linh nổi bật như chùa Vĩnh Tràng – ngôi chùa cổ kính, mang đậm kiến trúc Á – Âu hòa quyện, được xem là một trong những ngôi chùa đẹp nhất miền Tây. Hay lăng Hoàng Gia, nơi thờ các vị vua nhà Nguyễn và danh tướng Trương Định – một dấu ấn lịch sử quan trọng gắn liền với vùng đất Gò Công.
Với những ai quan tâm đến lịch sử và kiến trúc, di tích nhà Đốc phủ Hải hay nhà Đốc học Nguyễn Thanh Hòa sẽ là những điểm dừng chân thú vị, giúp hiểu thêm về văn hóa và xã hội miền Tây Nam Bộ thời xưa.
Mỗi điểm đến ở Tiền Giang không chỉ đơn thuần là địa danh, mà còn là nơi kể lại những câu chuyện – về con người, lịch sử, và nhịp sống đặc trưng của một vùng đất “ngọt” cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tất cả góp phần làm nên sức hút riêng biệt cho du lịch Tiền Giang giữa bản đồ miền Tây.
Một vùng đất năng động và tiềm năng
Không chỉ dừng lại ở một vùng quê yên ả, Tiền Giang ngày nay đang vươn mình mạnh mẽ, trở thành điểm đến hấp dẫn của du lịch Tiền Giang, thu hút nhà đầu tư, du khách và cả những ai muốn khám phá chiều sâu văn hóa miền Tây.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có hệ thống giao thông kết nối thuận tiện như quốc lộ 1A, cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận và vị trí gần TP.HCM, Tiền Giang đang có những bước chuyển mình rõ rệt. Các khu, cụm công nghiệp được quy hoạch bài bản; nông nghiệp công nghệ cao và du lịch sinh thái Tiền Giang được đẩy mạnh; hạ tầng đô thị tại Mỹ Tho và Gò Công ngày càng khởi sắc.
Với lợi thế sông ngòi, đất đai màu mỡ và nguồn nhân lực dồi dào, Tiền Giang là vùng đất hứa cho các ngành nông nghiệp giá trị cao, công nghiệp chế biến, logistics và du lịch trải nghiệm miền Tây. Song song đó, việc giữ gìn bản sắc văn hóa địa phương cũng tạo nên lợi thế cạnh tranh riêng mà không phải nơi nào cũng có.
Ngày nay, du lịch Tiền Giang không chỉ là hành trình trở về với thiên nhiên và ký ức tuổi thơ, mà còn là cơ hội để tìm thấy cảm hứng và chứng kiến những chuyển động tích cực của một miền Tây đang đổi thay từng ngày – nhưng vẫn giữ được cái gốc chân thành, hào sảng vốn có.
Khám phá 5 điều thú vị về vùng đất Tri Tôn An Giang
Top 9 địa danh du lịch tâm linh An Giang mang đậm bản sắc văn hoá miền Tây
Cần Thơ vào top thành phố có kênh rạch đẹp nhất thế giới
Du lịch suối Tranh Phú Quốc
Cẩm nang du lịch Sóc Trăng
Về Tri Tôn thăm đồi Tà Pạ
Khu du lịch Xẻo Quýt, Đồng Tháp
Những cây cầu thân quen quanh TP Vĩnh Long
LÀNG NGHỀ
Làng nghề An Giang – Giữ hồn quê từ chiếc nón lá ở xã Hội An, Chợ Mới
Làng nghề nắn nồi đất huyện Hòn Đất – Kiên Giang
Làng nghề đan cỏ bàng Phú Mỹ
Làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
Làng nghề đóng xuồng ghe Bà Đài, Đồng Tháp
Làng nghề An Giang – Giữ hồn quê từ chiếc nón lá ở xã Hội An, Chợ Mới
Làng nghề nắn nồi đất huyện Hòn Đất – Kiên Giang
Làng nghề đan cỏ bàng Phú Mỹ
Làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
Làng nghề đóng xuồng ghe Bà Đài, Đồng Tháp
ẨM THỰC
Cơm tấm Long Xuyên: Lạ mà quen của ẩm thực An Giang
Cơm tấm Long Xuyên là một trong những nét ẩm thực đặc sắc của An Giang, vừa quen thuộc với người miền Tây, vừa khiến du khách tò mò vì sự tinh tế trong từng chi tiết. Không chỉ là những hạt cơm tấm thơm lừng, món ăn này còn chứa đựng câu chuyện của đời sống nông thôn miền Tây bao đời. Bài viết này sẽ giúp bạn khám phá món cơm tấm Long Xuyên từ lịch sử, ý nghĩa tên gọi, cách chế biến, đến những chi tiết thú vị ít ai biết.
Nguồn gốc cơm tấm Long Xuyên
Nguồn gốc cơm tấm Long Xuyên (Nguồn: Internet)
Cơm tấm Long Xuyên ra đời từ chính đời sống giản dị của người dân miền Tây sông nước. Vào những năm đầu thế kỷ 20, khi nghề trồng lúa phát triển mạnh ở An Giang, người nông dân tận dụng những hạt gạo vỡ (loại gạo không còn nguyên hạt) để nấu cơm. Ban đầu, cơm tấm chỉ là bữa ăn dân dã, nhanh gọn, phục vụ cho những người lao động nặng nhọc như thợ nề, công nhân lò gạch, hay những gia đình nghèo. Về sau, cơm tấm Long Xuyên đã trở thành món ăn quen thuộc được nhiều người yêu thích và trở thành một phần không thể thiếu trong ẩm thực miền Tây.
Cơm tấm Long Xuyên không chỉ đơn thuần là cơm và vài món ăn kèm. Từng hạt cơm, từng miếng thịt thái sợi hay trứng vịt kho (khìa) đều được chăm chút tỉ mỉ, vừa thỏa mãn cơn đói, vừa mang đến hương vị đậm đà, hài hòa. Theo dòng chảy thời gian, món ăn từ bữa cơm lao động giản dị đã len lỏi vào đời sống thường nhật của nhiều gia đình và trở thành biểu tượng ẩm thực đặc trưng của Long Xuyên – vừa lạ vừa quen đối với bất kỳ ai từng thưởng thức.
Điểm thú vị là cơm tấm Long Xuyên không chỉ giữ nguyên cách nấu truyền thống mà còn phản ánh văn hóa sinh hoạt, tính khéo léo và tinh thần sáng tạo của người dân miền Tây. Bằng cách tận dụng tối đa nguyên liệu, biến những gì bình dị nhất thành một món ăn trọn vẹn hương vị và câu chuyện.
Ý nghĩa tên gọi và câu chuyện đằng sau món ăn
Hạt tấm nhuyễn (Nguồn: Internet)
Tên gọi “cơm tấm” bắt nguồn từ chính nguyên liệu gạo tấm – là những hạt gạo bị vỡ trong quá trình xay xát, từng bị coi là “dư thừa” trong đời sống nông thôn. Với lối sống khéo léo và sáng tạo, người miền Tây không để những hạt gạo này lãng phí mà biến chúng thành món ăn vừa no, vừa ngon, vừa đầy đủ dinh dưỡng. Cái tên giản dị ấy không chỉ gợi nhắc nguồn gốc mà còn chứa đựng tinh thần “tận dụng và sáng tạo” của người dân Long Xuyên.
Bên cạnh đó, cơm tấm Long Xuyên còn mang theo câu chuyện của đời sống và con người miền Tây. Mỗi đĩa cơm, từ cách xếp sườn xắt sợi, trứng kho (khìa) đến đồ chua và mỡ hành, đều là dấu ấn của sự chăm chút và đôi tay khéo léo người nấu. Có những quán, món cơm tấm được lưu truyền qua nhiều thế hệ, giữ nguyên công thức từ ông bà, như một cách gìn giữ văn hóa và ký ức vùng sông nước. Chính sự kết hợp giữa nguyên liệu giản dị và sự tinh tế trong chế biến đã biến cơm tấm Long Xuyên trở thành món ăn “lạ mà quen”: quen thuộc với đời sống thường nhật, nhưng mỗi lần thưởng thức lại mang đến hương vị riêng khó nhầm lẫn.
Thành phần, cách chế biến và lý do xắt sợi đồ ăn
Cơm tấm Long Xuyên tạo nên dấu ấn riêng bằng sự tinh tế trong từng chi tiết. Khác với cơm tấm Sài Gòn, món ăn này được chế biến theo cách đặc trưng: sườn, chả, trứng kho (khìa), thậm chí cả thịt mỡ đều được thái mỏng, xắt sợi vừa miệng. Cách làm này không chỉ giúp gia vị thấm đều mà còn mang lại cảm giác mềm, dễ thưởng thức hơn.
Mỗi dĩa cơm là tổng hòa của nhiều thành phần nhỏ nhưng hoàn hảo: hạt cơm tấm, thịt sợi mềm, bì dai giòn cùng mỡ hành thơm phức và đồ chua giòn ngon. Tất cả hòa quyện tạo nên hương vị đậm đà nhưng không ngấy, khiến thực khách luôn cảm thấy “nhẹ bụng” hơn so với cơm tấm ở những nơi khác.
Đây chính là triết lý ẩm thực Long Xuyên: dù là món dân dã, vẫn cần sự chăm chút tỉ mỉ để tôn vinh từng giác quan của người thưởng thức.
Thịt khìa được cắt sợi (Nguồn: Internet)
Mỗi quán cơm tấm Long Xuyên đều giữ bí quyết riêng trong cách ướp sườn, pha nước mắm và nướng chả, tạo nên những biến tấu tinh tế trên nền tảng truyền thống. Chính sự tỉ mỉ trong từng công đoạn này khiến cơm tấm Long Xuyên vừa quen thuộc vừa bất ngờ – dù thưởng thức nhiều lần, thực khách vẫn luôn tìm thấy điều mới lạ trong hương vị đã thuộc lòng.
Trứng khìa (Nguồn: Internet)
Điểm khác biệt giữa cơm tấm Long Xuyên và các tỉnh khác
Cơm tấm miền Nam tuy phổ biến nhưng mỗi vùng đều có bản sắc riêng. Long Xuyên tạo dấu ấn khó nhầm lẫn nhờ sự cân bằng hoàn hảo giữa nguyên liệu, gia vị và kỹ thuật chế biến.
Khác với cơm tấm Sài Gòn thiên về vị ngọt đậm, Long Xuyên theo đuổi sự hài hòa: sườn nướng vừa phải, thịt khìa xắt sợi mềm, nước mắm cân bằng mặn ngọt, và mỡ hành thơm phức. Đồ chua giòn, tươi mát giúp món ăn không bị ngấy dù thưởng thức nhiều.
Điểm độc đáo nhất của Long Xuyên nằm ở nghệ thuật “xắt sợi” – mọi thành phần được chế biến tỉ mỉ để gia vị thấm đều và tạo cảm giác tinh tế trên đầu lưỡi. Cách bày trí giản dị nhưng chu đáo mang hơi thở gia đình, khiến cơm tấm Long Xuyên vừa gần gũi vừa thanh lịch.
Gợi ý trải nghiệm cơm tấm Long Xuyên tại Sài Gòn
Cơm tấm Long Xuyên tại Sài Gòn (Nguồn: Internet)
Dù gốc gác của món ăn nằm ở An Giang, bạn vẫn có thể thưởng thức cơm tấm Long Xuyên ngay tại Sài Gòn. Nhiều quán ăn và nhà hàng tại thành phố này phục vụ phiên bản gần như nguyên bản, giữ nguyên cách nướng sườn, xắt sợi đồ ăn và pha nước mắm đậm đà đặc trưng.
Bạn vẫn có thể tìm thấy cơm tấm Long Xuyên tại những khu vực tập trung cộng đồng người miền Tây. Đặc biệt, ở Quận 5, Quận 6, Quận Tân Phú, Quận Bình Tân – nơi nhiều quán ăn gia truyền vẫn giữ nguyên hương vị miền Tây. Một số quán ẩm thực quanh chợ Bến Thành, Quận 1 cũng phục vụ món ăn này, thuận tiện cho khách du lịch muốn thưởng thức hương vị Long Xuyên ngay trong lòng thành phố. Dù không phải trực tiếp tại Long Xuyên nhưng cách nướng sườn, xắt sợi đồ ăn và pha nước mắm vẫn giữ nguyên tinh thần món ăn, giúp bạn trải nghiệm trọn vẹn hương vị đặc trưng của An Giang.
Canh chua cá linh nấu bông điên điển là món ăn dân dã mang đậm hương vị miền Tây sông nước. Vị chua thanh từ me, vị ngọt từ cá linh tươi ngon cùng hương thơm đặc trưng của bông điên điển tạo nên một món canh cực kỳ hấp dẫn.
Nguyên liệu:
500g cá linh
200g bông điên điển
200g bông súng (bông so đũa)
100g me non
50g tỏi
Ngò gai, rau om, ớt
Gia vị: Nước mắm, đường, muối, bột ngọt
Cách nấu:
Sơ chế nguyên liệu:
Cá linh mua về rửa sạch, để ráo.
Bông điên điển nhặt lấy phần bông, rửa sạch.
Bông súng tước vỏ, cắt khúc.
Me non dầm với nước nóng, lọc lấy nước cốt.
Tỏi băm nhuyễn.
Rau om, ngò gai rửa sạch, cắt nhỏ.
Ớt cắt lát.
Nấu canh:
Phi thơm tỏi băm với 1 muỗng canh dầu ăn.
Cho cá linh vào xào săn.
Cho nước me vào nồi, nêm thêm 1 muỗng canh nước mắm, 1 muỗng cà phê muối, 1 muỗng cà phê đường.
Đun sôi nồi canh, sau đó cho bông súng vào nấu khoảng 5 phút.
Tiếp tục cho bông điên điển vào nấu thêm 2 phút.
Nêm nếm gia vị cho vừa ăn.
Cho rau om, ngò gai và ớt cắt lát vào nồi canh.
Tắt bếp và thưởng thức.
Mẹo:
Nên chọn cá linh tươi sống để món canh ngon hơn.
Có thể thay thế bông súng bằng rau muống bào.
Nên nêm nếm gia vị cho vừa ăn theo khẩu vị của bạn.
Công dụng:
Canh chua cá linh nấu bông điên điển là món ăn giàu dinh dưỡng, cung cấp nhiều vitamin và khoáng chất cho cơ thể.
Món canh này có tác dụng giải nhiệt, thanh mát, giúp kích thích tiêu hóa.
Cá lóc nướng trui – món ngon ruộng đồng
Từ một món ăn dân dã, cá lóc nướng trui đã trở thành món đặc sản mà người dân Nam Bộ đãi khách phương xa hay dùng trong cả những dịp lễ tết. Cá lóc ngon nhất là vào đầu mùa mưa, bụng đầy trứng; hoặc ra giêng cá trưởng thành, béo.
Cá lóc ngon nhất là vào đầu mùa mưa, bụng đầy trứng.
Cá lóc là loài cá thịt ngon và hiền, ít xương và nhiều đạm trong các loài cá đồng. Cá lóc có 2 loại, loại cá lóc nuôi thường con to, có trọng lượng từ 1-2 kg; tuy nhiên loại cá lóc đồng được ưa chuộng nhất bởi cá được bắt tự nhiên từ trong ruộng, đồng, thịt ngọt, con nhỏ khoảng vài trăm gram đến nửa kg.
Cá lóc nướng trui ra đời từ những buổi làm đồng của những người nông dân Nam Bộ. Sau khi ngăn lạch, tát đìa, cá bắt lên chỉ cần rửa sạch, um rơm nướng chín là có thể cùng nhau thưởng thức ngay giữa cánh đồng lộng gió.
Từ món ăn đơn giản đó, cá lóc nướng trui nhanh chóng trở thành một đặc sản mà du khách khi đến Nam bộ đều muốn được một lần thưởng thức. Với món ăn này muốn ngon thì cá lóc nhất thiết phải là loại sống trong môi trường tự nhiên. Vì những con cá đó tuy không nhiều thịt nhưng lại săn chắc, có vị ngọt thơm chứ không bở và tanh như cá lóc nuôi. Tuy nhiên, ngày nay cá lóc trong tự nhiên rất khan hiếm nên người ta thường sử dụng cá nuôi để chế biến món ăn này. Ngoài ra, hình thức nướng trui rơm cũng ít phổ biến trong thời gian gần đây, mà chủ yếu nướng trên than hồng là nhiều. Thế nên một phần nào đó đã làm giảm đi hương vị thơm ngon cho món ăn đã đi vào thơ ca, đã gắn liền với ký ức tuổi thơ của rất nhiều người.
Cách chế biến cá lóc nướng trui
Chế biến cá lóc nướng trui không hề khó nhưng nó cũng đòi hỏi sự khéo tay cũng như kinh nghiệm của người làm bếp.
Cá phải còn sống được rửa sạch, xiên một cành tre tươi dọc theo thân cá rồi cắm ngược đầu cá xuống đất, sử dụng tre tươi sẽ không bị cháy trong quá trình nướng, Rơm được chất đống phủ lên mình cá, nhiều nhất là phần đầu cá, vì đây là phần rất khó chín. Người nướng phải canh lượng rơm vừa đủ để khi vừa cháy hết là cá vừa chín tới, nếu thiếu lửa thì cá sẽ bị sống, ngược lại cá sẽ chín khô, mất nước không ngon.
Cá nướng chín được bày ra trên lá chuối, cạo bỏ phần vảy cháy đen bên ngoài để lộ ra phần da chín vàng ươm thơm nức đầy hấp dẫn.
Cách chế biến cá lóc nướng trui
Rau ăn kèm cá lóc nướng trui
Món ăn này phải thưởng thức với một rổ rau sống tươi ngon. Ngoài các loại rau quen thuộc như xà lách, húng quế, diếp cá tùy theo vùng hoặc theo mùa mà có thêm các loại rau khác như lá cóc, lá sộp, lá sài, quế vị, lá cách, bông điên điển, bông súng… Ngoài ra còn có các nguyên liệu khác như dưa leo, chuối chát, khế chua, giá, bún tươi, bánh tráng… cùng chén nước mắm chua ngọt hoặc chén mắm nêm đậm đà, thơm ngon. Và tất nhiên không thể thiếu một ít bánh hỏi rưới mỡ hành hay bún tươi.
Một miếng bánh tráng mỏng được trải bên dưới, bên trên là các loại rau, bánh hỏi, thêm một miếng thịt cá trắng tinh là đủ để hấp dẫn bạn. Tùy theo sở thích mà bạn có thể chọn nước chấm chua ngọt hay mắm nêm.
Rau ăn kèm cá lóc nướng trui
Vị đậm đà hơi cay của nước chấm, vị thanh mát, thơm nồng của các loại rau cùng phần thịt cá chín mềm, thơm ngọt… tất cả hòa quyện vào nhau đem lại cảm giác ngất ngây cho người ăn. Là một món ăn nổi tiếng nên cá lóc nướng trui được bán nhiều ở các tỉnh Nam bộ, nếu có một lần đặt chân đến đây, bạn đừng quên tìm và thưởng thức món ăn dân dã đầy hấp dẫn này.
Cá lóc ngon nhất là vào đầu mùa mưa, bụng đầy trứng; hoặc ra giêng cá trưởng thành, béo. Chính vì vậy, dù nướng lửa than, lửa rơm hay cách nào cũng ngon tuyệt.
Cách làm bánh ú nước tro – Văn hóa miền Tây
Bánh ú nước tro là món ăn truyền thống trong ngày tết Đoan Ngọ của người dân miền Nam. Ngày nay, chiếc bánh ú nước tro còn xuất hiện trong dịp lễ tết, hay đám giỗ.
Bánh ú nước tro là món ăn truyền thống trong ngày tết Đoan Ngọ của người dân miền Nam.
Bánh ú nước tro có hình chóp, to bằng nắm tay người lớn, bánh được gói bằng lá tre bên ngoài, bên trong là nếp và nhân đậu xanh. Thành phần có vẻ đơn giản nhưng để làm ra chiếc bánh ú nước tro thì phải trải qua nhiều công đoạn hết sức công phu.
Ngày xưa, để có nước tro làm bánh, người ta lấy rơm nếp đốt lấy tro, hòa với nước cho tan, để lắng và lấy phần nước trong. Ngày nay phần nước tro đã có bán ngoài chợ nên tiện lợi hơn nhiều. Ngoài ra khi làm chúng ta cần lưu ý nếu nếp có độ trong ít thì không đẹp và trong nhiều quá thì bánh có hậu đăng đắng. Điều này tùy thuộc vào kinh nghiệm của người làm.
Cách làm bánh ú nước tro:
– Nếp đãi qua nhiều lần nước cho thật sạch, ngâm gạo nếp vào thau nước lạnh có hòa một ít muối, ngâm khoảng 5-6 tiếng, đãi lại cho sạch.
– Cho nếp vào thau sạch, thêm nước lọc đã hòa với nước tro (một muỗng nước hòa với 1 lít nước), mực nước phải ngập mặt gạo nếp, ngâm 20-22 tiếng. Thỉnh thoảng khi ngâm bạn có thể thử bằng cách lấy vài hạt nếp đã ngâm, để giữa hai đầu ngón tay, bóp nhẹ thấy hạt nếp vỡ nhẹ ra thì nếp đã ngấm đủ nước tro.
– Sau đó, nếp xả lại nhiều lần nước lạnh cho thật sạch, xóc thêm muối vào, để ráo nước
– Đậu xanh đã đãi vỏ, ngâm vào thau nước ấm khoảng 1-2 tiếng. Tiếp theo cho đỗ xanh vào nồi, thêm một ít nước lọc nấu cho đậu xanh chín mềm.
– Khi đậu vẫn đang còn nóng trên bếp, thêm đường vào, dùng muôi gỗ khuấy thật nhanh tay để hạt đậu mịn ra. Cho đỗ xanh vào chảo, sên lửa nhỏ để mặt đỗ hơi se khô lại, nêm đường tùy theo bạn thích ăn ngọt nhiều hay ít, tắt bếp, để nguội, vo viên tròn nhỏ.
Cách làm bánh ú nước tro
– Lá tre rửa sạch, đun nồi nước sôi, cho lá tre vào nồi nước chần sơ qua nước sôi để lá mềm thì sẽ dễ gói hơn,
– Khi gói bánh, người ta cuốn một đầu lá thành hình chiếc phễu, cho vào một ít nếp, nhân, bên trên thêm một lớp nếp nữa và gói lại thành một hình tam giác cho thật kín, dùng dây chuối buộc chặt bên ngoài. Sau khi gói xong, bánh được xếp vào nồi và đem luộc, khi bánh chín, vớt ra ngâm vào nước lạnh cho bánh nguội, sau đó buộc bánh thành từng chùm vào trên lên sàn cho bánh nhanh khô lá.
Khi bóc vỏ ra, chiếc bánh có màu vàng sẫm, trơn láng không dính vào lá. Cắn một miếng để cảm nhận bột bánh mềm, dẻo, phần nhân bên trong có vị ngọt thanh dễ chịu. Bánh ú nước tro dễ ăn, không gây ngán, bột bánh có vị mát nên được nhiều người ưa thích trong những ngày nóng.
Những chiếc lá tre nhỏ nhắn, sợi lạt thanh mảnh bọc lấy những cái bánh trong ngần be bé, xinh xinh… tất cả sự khéo léo, tinh tế đều nằm trong đó. Thú vị là loại bánh này càng nhỏ thì thể hiện người gói càng khéo tay.
Món ăn vừa ngon vừa lạ từ nấm mối
Bánh lọt nước cốt dừa Cần Thơ
Cách làm đậu bắp nhồi cá thác lác nướng
Đậm đà bún cá Kiên Giang
Lạ miệng với canh chua lươn nấu trứng kiến
Cháo nhộng ong, đậm đà hương vị thôn quê
Đặc sản nấm tràm Phú Quốc
Trở về tuổi thơ với món chuối quết dừa
NGƯỜI MIỀN TÂY
5 nét đặc trưng về người Chăm An Giang ven bờ sông Hậu
Dọc theo khúc sông Hậu hiền hòa là những xóm nhỏ không tên, nơi người Chăm An Giang vẫn lặng lẽ sống đời mình qua từng thế hệ. Không ồn ào, không quảng bá, họ giữ lấy nếp cũ bằng những điều tưởng chừng rất bình thường. Một mái nhà sàn, một buổi cầu nguyện trong thánh đường, một chiếc khăn Matra quấn gọn trên đầu. Tất cả cùng góp phần tạo nên một mạch văn hóa lặng lẽ mà đậm màu sắc riêng.
Kiến trúc nhà sàn đặc trưng
Nét đặc trưng nhà sàn của người Chăm
Không phải ngẫu nhiên mà người Chăm ở An Giang chọn sống trên những ngôi nhà sàn. Giữa vùng đất thấp, mùa nước nổi về là chuyện thường niên, nhà sàn vừa là cách để thích nghi, vừa là biểu hiện cho một lối sống đã ăn sâu vào nếp nghĩ. Nhà được dựng cao, khung gỗ đơn giản, mái lợp tôn hoặc lá, sàn gỗ hoặc tre nứa đủ chắc chắn để sống, đủ thoáng để nghỉ ngơi trong cái oi ả của miền Tây.
Tầng dưới thường để trống, có khi là chỗ nuôi gia súc, gia cầm, có khi là nơi để xuồng, để nông cụ, hay chỉ là khoảng mát để tránh nắng trưa. Tầng trên là nơi ở, nơi sinh hoạt, nơi tiếp khách. Mọi thứ được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ và tôn trọng sự kín đáo, điều quan trọng trong văn hóa Hồi giáo mà người Chăm An Giang theo đuổi.
Làng Chăm cồn Tiền (An Giang)
Nhà sàn không chỉ là nơi che nắng che mưa, mà còn là không gian gắn kết con người với cộng đồng. Nhà thường dựng gần nhau, sân nối sân, hiên nối hiên, bước vài bước là tới thánh đường. Trong một không gian như thế, mọi hoạt động từ bữa cơm, lễ cầu nguyện, cho tới tiếng trẻ con chơi đùa đều đan xen nhau, tạo thành một nếp sống đầy gắn bó và ấm áp.
Cuộc sống người Chăm An Giang gắn liền với sông nước
Với người Chăm ở An Giang, dòng sông Hậu là một phần trong nhịp sống. Những con xuồng nhỏ lướt nhẹ trên dòng nước phù sa, chở theo rau trái ra chợ, chở những đứa trẻ đến trường, hay chỉ đơn giản là ghé sang nhà kế bên trò chuyện dăm ba câu. Sông là đường đi, là nguồn sống, là nơi khởi đầu và kết nối mọi sinh hoạt của cộng đồng.
Nghề đi ghe của người Chăm
Phụ nữ Chăm ở An Giang thường đảm nhận vai trò đi chợ, chăm sóc gia đình, chăn nuôi và làm thêm nghề tay trái tại nhà. Có những thời điểm, nghề dệt vải thủ công từng phát triển mạnh, gần như nhà nào cũng có khung cửi. Họ dệt nên những tấm vải hoa văn truyền thống mang đi bán khắp miền Tây, thậm chí xuất khẩu sang Malaysia, Indonesia hay Campuchia. Dù nay không còn phổ biến như xưa, nghề dệt vẫn còn sống lặng lẽ ở một số làng nghề như Phũm Soài (Tân Châu) hay Đa Phước (An Phú) như một nếp xưa vẫn được gìn giữ trong từng sợi vải.
Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm
Trong khi đó, đàn ông giữ vai trò dẫn dắt tinh thần từ việc hành lễ tại thánh đường, học kinh đến việc dạy con cái theo giáo lý Islam. Mỗi người một phần việc, tưởng như phân chia rạch ròi, nhưng thực chất lại gắn bó chặt chẽ trong đời sống gia đình và cộng đồng. Người Chăm An Giang cũng có những quy tắc ẩm thực riêng: tuyệt đối không ăn thịt heo, luôn đảm bảo thức ăn sạch và đúng giáo luật. Ngày thường, bữa cơm đơn giản, thanh đạm.
Đặc sản món ăn “tung lò mò” của đồng bào Chăm
Nhưng vào dịp lễ, Tết hoặc các sự kiện tôn giáo, ẩm thực lại phong phú. Từ cà ri bò, cơm nị, cà púa đến món “tung lò mò”, một loại lạp xưởng bò đặc trưng được chế biến kỳ công. Những chiếc bánh truyền thống như pây-krah, thon-dót, ha-phùm… được phụ nữ Chăm làm ra không chỉ để ăn, mà còn để gìn giữ vị quê nhà, lưu giữ hương vị của một cộng đồng có bề dày văn hóa. Tất cả thuộc về người Chăm An Giang từ nghề dệt, cách ăn uống, vai trò gia đình đến lối đi chợ bằng xuồng đều dệt nên một nhịp sống bền bỉ, mộc mạc nhưng giàu bản sắc, đậm chất sông nước miền Tây.
Không gian văn hóa thánh đường
Giữa những xóm nhà sàn mộc mạc ven sông, thánh đường Hồi giáo hiện lên như một điểm tụ linh thiêng và gắn kết cộng đồng. Không lộng lẫy, cầu kỳ, các thánh đường của người Chăm ở An Giang thường có kiến trúc đơn giản, thoáng đãng, với mái vòm, cửa cuốn và tông màu trắng làm chủ đạo.
Mỗi ngôi thánh đường đều là trung tâm tinh thần, nơi diễn ra các buổi hành lễ, học kinh, sinh hoạt tôn giáo và truyền dạy đạo lý. Vào dịp lễ lớn như tháng Ramadan hay Tết Raya Idilfitri, thánh đường lại đông đúc và rộn ràng hơn bao giờ hết. Người người trong trang phục truyền thống tề tựu, cầu nguyện, chia sẻ thức ăn, chúc tụng nhau những điều tốt lành.
Ở An Giang, có nhiều thánh đường đã trở thành một phần không thể tách rời trong ký ức người Chăm An Giang. Nổi bật là Masjid Mubarak ở xã Châu Phong (Tân Châu), một trong những thánh đường lâu đời nhất. Xây dựng từ đầu thế kỷ 19, nơi vẫn đều đặn vang lên lời kinh giữa khung cảnh đồng bằng lặng lẽ.
Thánh đường Masjid Mubarak ở xã Châu Phong
Thánh đường Jamiul Azhar ở Đa Phước (An Phú) lại là nơi sinh hoạt của một cộng đồng đông đảo hơn, giữ nếp sinh hoạt tôn giáo rất chặt chẽ. Còn ở Phũm Soài, nơi vẫn còn lưu giữ nghề dệt thủ công truyền thống, thánh đường Masjid Khairul Ummah vừa là điểm tựa tinh thần, vừa là nơi trẻ em học chữ Ả Rập, học cách giữ đạo và sống tử tế.
Thánh đường Jamiul Azhar
Không chỉ là nơi giữ đạo, thánh đường còn là nơi giữ nếp sống cộng đồng của người Chăm An Giang. Trong một thế giới ngày càng vội vã, không gian thánh đường của người Chăm vẫn giữ được nhịp chậm rãi và sự trang nghiêm vốn có như một chốn trở về cho tinh thần sau mỗi vòng quay mưu sinh.
Chiếc khăn Matra – Nét đẹp của phụ nữ Chăm ở An Giang
Đối với người Chăm An Giang, chiếc khăn Matra không chỉ là một món phụ kiện đội đầu. Đó là một phần trong căn tính văn hóa, là biểu tượng của nếp sống đạo hạnh, sự chỉn chu và lòng tự trọng của một người phụ nữ trong cộng đồng.
Biểu tượng nét đẹp của người phụ nữ Chăm
Khăn Matra thường được quấn gọn, đơn giản nhưng vẫn tạo nét duyên kín đáo. Mỗi cách quấn thể hiện sự khéo léo và tính cách riêng, không phô trương nhưng tôn lên vẻ đẹp dịu dàng và thanh lịch của người phụ nữ Chăm. Họ đội khăn đi chợ, đi lễ, làm việc nhà – như một phần thân quen không thể thiếu trong đời sống hằng ngày.
Chiếc khăn Matra trong văn hóa trang phục
Dù cuộc sống nay đã nhiều đổi thay, nhưng chiếc khăn ấy vẫn là một mảnh ghép không thể thiếu trong hành trang văn hóa, như một sự giữ gìn thầm lặng của những người phụ nữ luôn đặt sự tự tôn và lòng thành kính với truyền thống lên hàng đầu.
Một nhịp riêng trong lòng An Giang đa sắc
Giữa lòng An Giang, nơi giao thoa của nhiều dòng chảy văn hóa, người Chăm chọn cho mình một nhịp sống riêng, bền bỉ mà không biệt lập. Họ không ồn ào quảng bá bản sắc, cũng chẳng cần phải cố gắng nổi bật giữa đám đông. Chính sự lặng lẽ đó lại là nét cuốn hút đặc biệt, khiến ai từng một lần ghé thăm những xóm Chăm ven sông Hậu đều ghi nhớ.
Từ kiến trúc nhà sàn, nếp sinh hoạt theo mùa nước nổi, tiếng cầu kinh vang lên mỗi chiều, đến một chiếc khăn Matra giản dị hay món tung lò mò thơm nồng. Tất cả tạo nên một cộng đồng vừa riêng biệt, vừa hài hòa trong tổng thể đa sắc của vùng đất đầu nguồn.
Người Chăm An Giang học cách thích nghi, thay đổi, song vẫn giữ được cái lõi trong văn hóa đã gắn bó với bao thế hệ. Và có lẽ, chính điều đó khiến sự hiện diện của họ trên mảnh đất An Giang này không chỉ là một phần của dân số, mà còn là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của vùng đất này.
Bản sắc người Khmer giữa lòng An Giang: Di sản sống thời hiện đại
Ở An Giang, người Khmer hiện diện như một phần thân thuộc trong đời sống. Văn hóa Khmer xuất hiện từ mái chùa rực rỡ trong phum sóc, tiếng trống hội rộn ràng mỗi dịp lễ, cho đến những thói quen thường nhật: ăn uống, sinh hoạt, lễ nghi. Giữa một miền Tây đang đô thị hóa nhanh chóng, bản sắc ấy vẫn luôn được gìn giữ. Và chính điều đó khiến văn hóa Khmer ở An Giang trở thành một di sản sống giữa thời hiện đại.
Chùa Khmer – nơi gìn giữ linh hồn cộng đồng
Nếu có dịp đi qua các phum sóc người Khmer ở Tịnh Biên, Tri Tôn hay Châu Thành, bạn sẽ dễ thấy một mái chùa hiện lên giữa rặng thốt nốt mái cong, tường vàng, rồng uốn lượn trên đỉnh. Với người Khmer, chùa không chỉ là nơi tu hành, mà còn là trung tâm tinh thần của cả cộng đồng.
Mái chùa vàng Khmer đẹp rực rỡ
Ở đây, mọi dấu mốc trong đời người từ sinh ra, trưởng thành đến khi mất đi đều gắn với chùa. Trẻ con được gửi vào đây học chữ Khmer, học đạo lý. Người lớn đến lễ vào rằm, mồng một, hoặc đơn giản là ghé thăm nhà sư khi trong lòng còn chuyện chưa nói.
Chùa Khmer không yên tĩnh như nhiều người nghĩ. Những ngày lễ lớn như Chôl Chnăm Thmây (Tết cổ truyền), Ok Om Bok (Lễ cúng trăng) hay Sen Dolta (Lễ cúng ông bà), sân chùa rộn ràng tiếng trống, tiếng hát dân gian, những bộ trang phục truyền thống sặc sỡ và cả tiếng cười của trẻ con chạy nhảy.
Chôl Chnăm Thmây (Tết cổ truyền)
Không gian chùa cũng là nơi người lớn họp bàn việc chung, nơi người trẻ tập múa Romvong, nơi các nghệ nhân dạy lại cách khắc gỗ, đắp phù điêu, hay viết chữ Khmer lên kinh kệ. Những thứ tưởng đã cũ kỹ lại được truyền đi từng ngày, trong chính nếp sinh hoạt quen thuộc.
Với người ngoài, chùa là điểm đến du lịch. Nhưng với người Khmer ở An Giang, chùa là nơi gìn giữ linh hồn. Không phải vì nó cổ kính hay nguy nga, mà bởi vì nó vẫn sống cùng với người dân.
Ngôn ngữ, tín ngưỡng và đời sống thường ngày của người Khmer
Về xứ An Giang, không quá lạ để bạn có thể nghe tiếng Khmer vang lên trong cuộc trò chuyện giữa hai người bán rau ngoài chợ, trong lớp học mẫu giáo, hay ở một buổi tụng kinh trong chùa vào sáng sớm. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp – với người Khmer, đó còn là cách giữ gìn gốc rễ, là niềm tự hào và cũng là sợi dây nối liền giữa thế hệ trước và thế hệ ngày nay.
Phần lớn người Khmer ở An Giang theo Phật giáo Nam tông, nên đời sống tinh thần gắn chặt với ngôi chùa. Chùa không chỉ là nơi thờ tự, mà còn là trung tâm văn hóa, giáo dục và sinh hoạt cộng đồng. Trẻ con học chữ Khmer từ sư thầy, người lớn gửi gắm niềm tin vào các dịp lễ như Pchum Ben, Chol Chnam Thmay hay Ok Om Bok. Mỗi dịp lễ hội là một lần cả cộng đồng quây quần, cùng chuẩn bị bánh trái, trang hoàng phum sóc, cùng cầu an, cúng tổ tiên và nhắc nhau về những điều tốt lành.
Trang phục độc đáo, đặc sắc của người Khmer
Tín ngưỡng và ngôn ngữ dường như hoà quyện trong từng nếp sống. Dù là ngày thường, bạn vẫn có thể thấy người Khmer chắp tay chào nhau bằng sự kính trọng, hay rì rầm đọc vài câu kinh khi bước vào chùa. Mỗi hành động nhỏ đều thấp thoáng bóng dáng của một nền văn hóa đã được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Giữa dòng chảy hiện đại, người Khmer ở An Giang vẫn duy trì được nhịp sống riêng đầy độc đáo và thú vị.
Lễ hội Khmer – dịp để vui, để nhớ, để sống gần nhau hơn
Lễ hội luôn là phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Khmer ở An Giang. Mỗi dịp lễ không chỉ mang ý nghĩa tín ngưỡng mà còn là lúc cộng đồng quây quần, chia sẻ niềm vui và giữ lại mối liên kết với tổ tiên, với quê hương và với nhau.
Chol Chnam Thmay – Tết cổ truyền của người Khmer, thường rơi vào tháng 4 dương lịch là lễ lớn nhất trong năm. Những ngày này, phum sóc rộn ràng từ sáng sớm, nhà nhà dọn dẹp, chùa chiền trang hoàng, người dân nô nức về chùa làm lễ. Tiếng trống, tiếng tụng kinh vang lên đều đặn, xen lẫn tiếng cười con trẻ chơi té nước, đắp núi cát – vừa vui chơi, vừa gìn giữ phong tục cổ xưa.
Tết Chol Chnam Thmay ở An Giang
Sen Dolta, diễn ra vào khoảng tháng 9 âm lịch, là lễ cúng ông bà tổ tiên. Vào ngày này, nhiều gia đình người Khmer sum họp, chuẩn bị mâm cơm dâng cúng, rồi cùng nhau về chùa làm lễ. Đó là lúc người đi xa trở về, người còn sống tưởng nhớ người đã khuất như một hình thức giữ gìn đạo lý truyền thống qua nhiều thế hệ.
Lễ Sen Dolta của đồng bào Khmer
Ok Om Bok – lễ cúng trăng cuối năm, diễn ra vào tháng 10 âm lịch, là dịp tạ ơn trời đất sau mùa vụ. Nhiều nơi còn tổ chức đua ghe ngo, thu hút cả cộng đồng cùng tham gia và cổ vũ. Đó là lúc không khí hội hè lên cao, rộn ràng mà vẫn đầy tính kết nối.
Lễ hội Ok Om Bok
Dù sống ở nông thôn hay đô thị, người Khmer ở An Giang vẫn gìn giữ lễ hội như một phần máu thịt. Lễ là dịp để vui nhưng cũng là để nhớ, để gắn bó với nhau hơn trong đời sống cộng đồng. Mỗi năm đi qua, mỗi lễ hội trở lại như một lời nhắc nhẹ nhàng rằng: văn hóa không nằm trên sách vở, mà sống giữa đời thường.
Giữ lửa nghề, giữ bản sắc
Ở nhiều phum sóc Khmer tại An Giang, vẫn còn những người kiên trì với nghề truyền thống – không phải để mưu sinh chính, mà để giữ một phần ký ức. Nghề dệt thổ cẩm, làm bánh dân gian, điêu khắc gỗ, làm nhạc cụ… tuy không còn phổ biến như trước nhưng vẫn hiện diện, âm thầm và bền bỉ.
Tại xã Châu Phong (TX. Tân Châu), nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm (thuộc cộng đồng Khmer) vẫn âm thầm tồn tại qua bao thế hệ. Nghề này đã trở thành một phần ký ức sống, nơi người trẻ cũng học từ người già cách giữ từng hoa văn, từng sắc màu vốn gắn liền với văn hóa quê hương.
Những hoa văn truyền thống trở thành biểu tượng văn hóa, được truyền lại qua nhiều thế hệ. Đôi tay thoăn thoắt, nhịp thoi đều đặn, mỗi tấm vải hoàn thành là cả một câu chuyện về sự kiên trì, cẩn trọng và niềm tự hào.
Tinh hoa thổ cẩm Khmer
Ngoài dệt, nghề làm bánh dân gian như bánh tét lá cẩm, bánh ít, bánh gừng vẫn được truyền lại trong các gia đình. Người lớn tuổi dạy con cháu không chỉ cách làm, mà còn cách gói sao cho vuông vức, chín đều, thơm dẻo như cách truyền lại lòng kiên nhẫn và nét đẹp tổ tiên.
Nghề làm bánh gừng
Một số nghệ nhân còn duy trì nghề làm nhạc cụ truyền thống như trống, chiêng, khèn… phục vụ các dịp lễ hội lớn như Chol Chnam Thmay hay lễ Sen Dolta. Những âm thanh ấy không chỉ dùng để múa hát, mà còn gợi nhớ cội nguồn và kết nối cộng đồng.
Người làm nhạc cụ truyền thống Khmer
Giữa thời đại mà máy móc thay thế dần lao động thủ công, người Khmer ở An Giang vẫn chọn cách giữ nghề như giữ lấy một phần bản sắc. Họ không chỉ làm ra sản phẩm, mà còn gìn giữ một đời sống văn hóa để thế hệ sau còn thấy được mình đến từ đâu.
Văn hoá giao thoa nhiều nếp sống
Ở An Giang, người Khmer không sống tách biệt mà hòa cùng nhịp thở chung của cả vùng. Phum sóc người Khmer nằm cạnh làng Kinh, người Chăm dệt vải bên kia bờ kênh, người Hoa mở tiệm thuốc hay quán ăn ngay sát chợ… Tất cả cùng chia sẻ không gian, cùng sinh hoạt, cùng đi chợ sớm, cùng tham gia các lễ hội lớn nhỏ.
Đi dọc tuyến đường vùng biên, không khó để thấy những biểu tượng văn hóa đan xen: mái chùa Khmer vàng rực giữa cánh đồng, bên kia là miếu Bà Chúa Xứ; trẻ con đến trường cùng nhau, về nhà lại cùng chơi một trò dân gian mà chẳng ai để ý ai thuộc dân tộc nào. Mỗi cộng đồng đều giữ nếp riêng, nhưng vẫn cởi mở để cùng nhau sống tốt.
Văn hóa Khmer ở An Giang không chỉ là những giá trị để trưng bày hay ghi nhớ, mà là đời sống đang diễn ra mỗi ngày. Từ tiếng trống chùa, đường kim dệt vải, đến những buổi lễ rộn ràng trong phum sóc tất cả vẫn hiện diện, vẫn sống động, vẫn được gìn giữ và tiếp nối một cách tự nhiên. Chính cách sống bình dị, tôn trọng nhau trong từng điều nhỏ đã giúp cho vùng đất An Giang giữ được sự đa dạng văn hóa.
Một bản sắc đang sống, không chỉ còn lại trong ký ức
Giữa sự đổi thay nhanh chóng của đô thị và đời sống hiện đại, đồng bào Khmer nơi đây vẫn giữ được mạch văn hóa riêng. Đồng thời, góp phần làm giàu cho diện mạo văn hóa chung của An Giang. Đó không phải là nỗ lực đơn độc, mà là sự cộng hưởng giữa cộng đồng và chính vùng đất đã ôm ấp họ từ bao đời.
Và nếu có dịp đến An Giang, đừng chỉ đi qua những điểm nổi tiếng. Hãy dành thời gian dừng lại ở một phum sóc Khmer, bước vào một ngôi chùa, xem bà con dệt vải, nghe trẻ nhỏ nói tiếng mẹ đẻ. Bạn sẽ thấy, di sản đôi khi không nằm trong bảo tàng mà trong nếp sống thường ngày, trong ánh mắt và nụ cười những con người đang gìn giữ bản sắc ấy từng ngày.
Đẩy côn mùa nước tràn đồng
Đẩy Côn – Giàn Côn là công cụ mà người dân Vùng Trũng Đồng Tháp Mười quê tôi mưu sinh vào mùa nước tràn đồng, chẳng biết nghề này có từ khi nào, chỉ biết người dân nơi đây xem đẩy côn là một nghề thực thụ suốt 20 năm qua.
Lũ về, nước trắng xoá một vùng, mang theo phù sa bồi thêm cho đất và mang theo biết bao cá tôm hào sảng, tạm gát lại công việc đồng án, người dân quê tôi bắt tay vào một mùa mưu sinh mới, mùa đẩy côn bắt cá lóc đồng.
Nếu có dịp về với Vùng trũng vào mùa nước nổi, thưởng thức con cá lóc đồng nướng trui thơm phức, ngọt lịm, bạn có bao giờ thắc mắc những người nông dân dùng công cụ gì để bắt cá không? Bạn sẽ cảm thấy vô cùng thú vị khi biết được suốt 20 năm qua người dân “săn” cá lóc trên những cánh đồng tràn nước là bằng đẩy Côn…
Đẩy cồn là hình thức đánh bắt hiệu quả
Đẩy Côn là công cụ không những giúp người dân mang lại nguồn kinh tế cao, mà còn góp phần bảo vệ nguồn sinh thái, chỉ bắt cá trưởng thành không bắt cá nhỏ như các công cụ khác. Hiểu một các nôn na giàn côn là công cụ khua nước, khi chạm vào côn cá giật mình chúi xuống bùn, người dân sẽ quan sát vị trí cá chúi nhờ tim nước rồi dùng nơm bắt. Côn được làm bằng những cọng sắt to bằng ngón tay út, có độ dài 1,5 m; một đầu côn được buộc vào một sợi dây nilông và được nối liền lại với nhau thành một hàng “rào sắt”, có khoảng cách từ 20 – 30 cm. Chọn hai cây tre dài, thẳng làm luồng côn, hai luồng côn được xếp theo hình chữ V đặt mở mũi xuồng. Mỗi luồng côn có chiều dài từ 12 – 15m. Để giữ cân bằng hai luồng côn cũng như điều chỉnh hai luồng côn cao hay thấp phụ thuộc vào cột trụ dựng đứng, có chiều cao khoảng 3 – 4 m để gánh hai luồng côn.
Khi bắt đầu đẩy côn, người ta chỉ cần mắc các côn vào luồng côn và điều chỉnh luồng côn cho phù hợp với mực nước. Sau đó người đẩy côn lên xuồng dùng xào đẩy xuồng đi tới. Khi đó, luồng côn cũng được kéo theo và cá va chạm với các côn sẽ chúi xuống đất, tạo thành bong bóng nước nổi lên mặt nước. Lúc này, người đẩy côn, chỉ việc dùng nơm bắt cá.
Đẩy côn thường bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng, còn buổi chiều là khoảng 15 giờ, vì thời gian này nhiệt độ thấp, cá mới lên ruộng nhiều. Theo người dân vùng lũ, trong các loại hình đánh bắt cá thì dùng côn khá đơn giản, không tốn nhiều chi phí đầu tư nhưng hiệu quả, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho nhiều hộ dân miền Tây. Tuy nhiên, không phải ai cũng làm được, vì để “săn” cá lóc đồng bằng đẩy côn cũng đòi hỏi phải có sức khỏe để lội trên đồng ruộng ngập nước, dầm mưa dãi nắng gần như suốt cả buổi. Đặc biệt, phải có tài quan sát bong bóng nước của cá, làm được điều này chỉ có những người nông dân tay lắm chân bùn sống giữa vùng sông nước, am hiểu tập tính của cá.
Đẩy cồn là hình thức đánh bắt hiệu quả
Mùa nước nổi cá về lũ lượt, đẩy côn là một nghề giúp người nông dân vùng lũ mưu sinh, đẩy côn không chỉ bắt được cá lóc mà còn bắt được cá trê, cá rô đồng, sống giữa thiên nhiên, chúng không to con, có nhiều kích cỡ, nhưng thịt thơm mềm có vị ngọt hậu là thứ đặc sản đồng quê giản dị mà đậm đà hương vị đến một cách kì lạ.
Đẩy côn không chỉ là công việc, hay dụng cụ bắt cá là đúng nghĩa hơn là “nghề”, nghề “săn” cá lóc đồng bằng đẩy côn xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng đặc biệt là tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang và Vĩnh Long… Khi nước lũ về, những cánh đồng tràn nước trắng xóa, nghề đẩy côn của người dân vùng lũ miền Tây bắt đầu hoạt động nhộn nhịp.
Đẩy côn là một nghề giúp người nông dân vùng lũ mưu sinh
Cảm ơn những con nước về đã mang đến quê hương vùng trũng biết bao hào sảng, mang đến nét văn hoá đặt trưng chỉ có riêng ở Vùng, mang đến một miền ký ức vô cùng đẹp cho người con xa xứ như tôi.
Người thợ bạc chơi kiểng hái tiền tỷ
Từ một thợ bạc có cuộc sống bình dị, bỗng nhiên anh Nguyễn Thanh Công lại trở thành tín đồ của nghệ thuật cây kiểng. Anh say mê đến nổi bạn bè và các nghệ nhân ai cũng nể, coi anh là một tay chơi hào phóng và “ nặng ký ” nhất làng kiểng miền Tây.
“Chơi cây kiểng nếu không say mê, không yêu thích thì không ai bỏ hàng trăm triệu mua về. Ngược lại chơi mà không có kinh tế thì lấy đâu tiền để chơi tiếp”, anh Công chia sẻ.
Sân kiểng nhà anh ở xã An Nhơn, huyện Châu Thành – Đồng Tháp với rất nhiều cây kiểng độc đáo, quý giá. “Lúc đầu tôi chỉ chơi vài ba cây trước sân nhà cho đẹp, giúp tinh thần thư giãn sau những giờ lao động mệt mỏi. Không ngờ cây kiểng lại có sức cuốn hút lạ kỳ, càng khám phá tôi càng say mê”, anh Công chia sẻ.
Thế là đi đến đâu anh cũng lân la tìm hiểu và tìm những cây đẹp, đặc biệt là cây to có dáng vẻ kỳ thú để mua về làm kiểng, và cứ thế mà số cây trong vườn dần dần tăng lên …Cho đến một ngày, có người đến hỏi mua lại mấy cây trong vườn với giá lên hàng trăm triệu đồng, lời gấp đôi, gấp ba giá vốn. Từ đây, anh mới nảy sinh ra ý tưởng vừa chơi kiểng vừa dùng kiểng để làm kinh tế.
10 năm nay, mỗi lần bạn bè cho biết nơi nào có cây hay, cây đẹp, đặc biệt là những cây có dấu ấn thời gian, là anh tìm đến để mua về thuần dưỡng, tạo dáng, biến một cây rừng hoang dã thành một tác phẩm nghệ thuật sống.
Có người hỏi anh, giữa chơi và kinh doanh cây kiểng, anh nặng bên nào? Anh không ngần ngại trả lời: “Nặng cả hai. Vì nếu không say mê, không yêu thích thì không ai dám bỏ hàng trăm triệu ra mua về để chơi. Ngược lại chơi mà không có đồng ra đồng vô thì lấy đâu ra tiền để chơi tiếp”, anh Công nói.
Anh Sáu Lựu, một nghệ nhân từng trải về nghề hoa kiểng cho biết, anh Công đã từng bỏ tiền thuê xe tải để chuyển cây sanh cổ thụ ra Hà Nội triển lãm nhân Đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Ngoài ra anh còn tích cực tham gia các Hội thi Hoa – lan – cây cảnh do địa phương và các nơi tổ chức để giao lưu học hỏi và chia sẻ với nghệ nhân cả nước. Tại Lễ hội Sinh Vật Cảnh Đồng Tháp năm 2010, anh đã giành được huy chương vàng cho tác phẩm Tiểu cảnh do chính anh sáng tạo.
Hiện vườn kiểng của anh Công có gần 400 bonsai, kiểng cổ thụ, kiểng hoa, kiểng trái và tiểu cảnh…với khá nhiều chủng loại đặc sắc, quý giá như mai vàng, nguyệt quế, tùng, sanh, cằn thăn, mai chiếu thủy và nhiều cây rừng hoang dã như vú sữa, lộc vừng, dâu… cây nào cũng được cắt tỉa, tạo dáng theo phong cách riêng. Riêng với bonsai, anh rất chú ý về tổng thể, chậu và cây lúc nào cũng tương xứng, cân đối và hài hòa.
Anh nói, trong số các loại cây hiện có, anh mê nhất là nguyệt quế và kiểng trái. Ngoài việc sưu tầm, anh còn là một người cần cù chịu khó, miệt mài học hỏi những kỹ thuật tiên tiến, bằng cách mời một số nghệ nhân có uy tín đến cố vấn kỹ thuật. Nhờ vậy mà bất cứ một mẫu cây rừng nào dù dạng thô sơ, tàn nhánh rắc rối tới đâu, khi vào khu vườn nhà anh cũng có thể hóa thân thành một cây kiểng nghệ thuật.
Anh cho biết mỗi cây đều có dáng vẻ và nét kỳ mỹ hấp dẫn khác nhau, do đó giá trị cũng khác nhau. Cây trong vườn nhà anh trung bình có giá từ vài chục triệu đến vài trăm triệu đồng. Riêng những cây lâu năm, già như cây sanh dáng cổ đã đưa ra Hà Nội triển lãm trị giá 1,5 tỷ đồng, hay cây nguyệt quế cổ thụ có giá 1 tỷ đồng…
“ Nhiều năm qua, có bao nhiêu tiền tôi cũng dành ưu tiên cho vườn kiểng. Đến năm rồi tôi đã thu vô được 10 tỷ từ tiền bán cây”, anh Công khoe.
Cũng theo anh Công người chơi kiểng hái tiền tỷ, chơi cây kiểng ngoài lợi nhuận kinh tế còn giúp con người gần với thiên nhiên, tâm hồn mở rộng, yêu đời và yêu cuộc sống nhiều hơn. Và cây kiểng cũng giúp anh có thêm nhiều bạn bè, khách ở các nơi từ Hà Nội, miền Trung, đó là những người cùng sở thích, cùng anh chia sẻ về thú chơi này đặc biệt này.
Theo News Zing
TIN TỨC
An Giang có gì? Giải mã sức hút của vùng đất đầu nguồn mở lối tương lai
Nghề mở khoá, sửa khoá tưởng an nhàn nhưng hoá ra lắm thị phi và cám dỗ. Chỉ cần một thoáng nhận định sai lầm hay loá mắt vì tiền là người thợ mở khoá sẽ bị kẻ xấu lợi dụng tiếp tay làm điều trái đạo. Do đó, ngoài cái tâm trong sáng, người thợ mở khoá còn phải luyện con mắt tinh tường để phân biệt người ngay, kẻ gian.
Nghề mở khoá, sửa khoá tưởng an nhàn nhưng hoá ra lắm thị phi và cám dỗ
Là người thợ mở khoá đầu tiên ở Cà Mau còn theo nghề cho đến bây giờ, ông Trần Văn Xê (Ba Xê), 67 tuổi, tuyên bố rằng, bất cứ loại ổ khoá nào trên đời này ông cũng có thể mở được, kể cả khoá tủ sắt đời mới nhất của ngân hàng hay ô-tô xịn. Tuy nhiên, nghề này thường bị kẻ gian lợi dụng, chỉ cần một chút bất cẩn là trở thành đồng phạm. Chính vì thế mà người thợ sửa khoá rất dè dặt trong truyền nghề, thậm chí khi thấy con, cháu không đứng đắn, chững chạc thì cũng tuyệt đối không truyền nghề.
Giữ đạo nghề là trên hết
Dưới chân cầu Cà Mau (phường 2, TP Cà Mau), có gần chục gian hàng sửa khoá nằm san sát nhau nhưng không hề có cảnh giành giật, gọi mời. Khách hàng vào gian hàng nào, chủ gian hàng đó tiếp. Thậm chí ổ khoá mới quá, họ còn trao đổi với nhau và tìm cách mở. Bởi lẽ, chủ nhân các gian hàng sửa khoá đều là đệ tử của bậc thầy mở khoá Ba Xê.
Kinh tế ngày càng phát triển, của cải ngày càng có giá trị và kéo theo ý thức bảo vệ tài sản của người dân ngày càng cao. Nắm bắt thị hiếu này, nhà sản xuất càng ngày càng nâng cao tính bền vững của ổ khoá. Họ thay thế ruột khoá bằng bi sang thép ống, thép lá; chìa khoá chuyển từ dẹp sang tròn hay trái khế; nguyên liệu sản xuất ổ khoá ngày càng cứng cáp hơn và che chắn đủ chiều theo dạng “chống cưa, chống cắt”. Tuy nhiên, theo ông Ba Xê, cái khó của nghề mở khoá là làm thế nào để giữ được đạo đức nghề nghiệp, không dao động trước đồng tiền mà tiếp tay kẻ xấu. Còn tất cả các ổ khoá dù bền vững đến đâu cũng chế tạo theo nguyên lý sắp xếp bi, thép miếng và mở bằng chìa, nếu có thời gian nghiên cứu thì người thợ vẫn mở được. Thậm chí chìa khoá xe hơi dài gần 10 phân và khoá cửa bằng điện thì người thợ vẫn có cách “trị”.
Vén ống quần Tây để lộ ra chiếc chân giả, ông Ba Xê kể đó là nguyên nhân khiến ông dính với nghiệp thợ sửa khoá. Ông Ba Xê hành nghề mở khoá từ năm 25 tuổi, ngay sau khi bị tai nạn mất 1 chân, bế tắc trong cuộc sống. Học nghề ở Cần Thơ mất 3 tuần, sau lên Sài Gòn nâng cao trình độ ở cửa hiệu khoá Hậu Ký thêm 2 tháng, ông về Cà Mau cùng Tâm Râu và ông Năm Chìa Khoá là 3 người làm nghề mở khoá đầu tiên ở Cà Mau.
Ông Ba Xê tự hào bảo rằng, nhóm của ông đã giữ được nguyên tắc nghề nghiệp cho đến khi 2 người bạn thân giải nghệ và ông cũng tự mãn với bản thân khi chưa lần nào bị đồng tiền cám dỗ.
Bằng nghề này, ông Ba Xê đã nuôi sống vợ con từ 42 năm qua. Các đệ tử của ông, người dốt chữ, người tật nguyền, cùng đường mưu sinh… tính ra đã có vài chục người được ông truyền nghề rồi về lập thân, lập nghiệp, sống thảnh thơi, không lo đói khát. “Mới cho “xuống núi” 1 đệ tử ở Tân Thành, TP Cà Mau. Nó tên Tèo, bị tai nạn giao thông dập nát 1 chân. Số mạng nó giống hệt tôi. Hôm mùng 3 Tết qua đây thăm tôi hào hứng lắm, cho hay đã mở được cái tiệm rồi”, ông khoe.
Hầu như các thợ sửa khoá đều ít nhất 1 lần trong đời gặp kẻ gian yêu cầu mở khoá, làm chìa. Tuỳ theo trường hợp mà từ chối nhưng có điều luật “bất thành văn”, những người thợ sửa khoá mà chúng tôi gặp đều không nhận làm chìa khoá theo mẫu in trên cục bột, sáp ong hay vẽ trên giấy…
Cạm bẫy bủa vây
Dù rất cẩn trọng cũng như không ngừng răn dạy học trò, nhưng gần đây, chính 2 đệ tử của ông Ba Xê vẫn không tránh được tai nạn nghề nghiệp. Họ bị Công an tỉnh mời tới mời lui nhiều lần, diễn đi diễn lại để công an làm hiện trường 1 vụ mở khoá thiếu minh bạch ở phường 4, TP Cà Mau.
Chuyện xảy ra vào tháng 6/2013 khiến thầy trò Ba Xê bị người ta bàn luận xôn xao về đạo đức. Ông Ba Xê kể, ngày hôm đó, ông không ra quản cửa hàng mà giao cho 2 đệ tử tên Khang và Thái. Chiều đó, có người đến kêu hai người họ đi mở két sắt ở phường 4, TP Cà Mau. Ðến nơi, thấy két sắt trong phòng gia chủ, lại có khoảng 5-6 người nhà vừa xem vừa quay phim lại quá trình mở khoá nên 2 anh thợ không một chút mảy may, nghi ngờ. Xong việc, được người ta trả công 400.000 đồng, 2 anh thợ hồ hởi kéo nhau đi nhậu chơi.
Hơn tháng sau, công an đến mời cả hai về điều tra. Ðến lúc này, 2 đệ tử của ông Ba Xê mới ngỡ ngàng khi biết két sắt đó được khiêng về từ nhà người khác. Họ buồn rầu mấy tháng, bị sư phụ gõ đầu trách mắng không giữ nguyên tắc nghề nghiệp. Ông Ba Xê phân tích, lẽ ra trong tình huống đó, đệ tử của ông phải đề nghị mời chính quyền địa phương đến chứng kiến, làm vậy để bảo vệ khách hàng, vừa tránh phiền phức cho mình về sau.
“Có khi nào mấy thằng ăn trộm nhờ ông mở khoá giùm không?”. Không cần suy nghĩ, ông Ba Xê nhìn thẳng vào chúng tôi và nói: “Sao không! Thậm chí tụi nó còn nói thẳng, chia cho tôi bao nhiêu phần trăm trong vụ “nhập nha” đó. Nhưng tôi không bao giờ làm bậy đâu!”.
Ông kể, cách đây 6 năm, có 4 người đàn ông đi xe hơi từ tỉnh Kiên Giang qua thoả hiệp với ông 1 vụ mở két sắt của 1 công ty. Ông Ba Xê được cam kết sẽ có xe hơi đưa về tận nhà và thưởng 100 triệu đồng nếu mở thành công. Ông không do dự mà từ chối ngay tức khắc, bảo cho 1 tỷ đồng cũng không làm. “Bình thường, chẳng có ai bỏ ra số tiền lớn như vậy để nhờ mở khoá cả. Không cần quan sát hay nghĩ ngợi nhiều, nghe qua là biết phi vụ đen tối rồi”, ông Ba Xê quả quyết.
Cách đây hơn 2 tháng, có 1 phụ nữ đẫy đà đến tiệm của ông Ba Xê nói thẳng nhờ giúp mở két sắt để lấy trộm tiền của mẹ chồng, hứa sẽ trọng thưởng. Ông giận run người, đuổi thẳng cô này ra khỏi tiệm của mình lập tức.
Ông Ba Xê cho biết, điều đáng tiếc nhất trong suốt 42 năm làm nghề sửa khoá là nhận lầm 1 học trò nhưng đó lại là người đệ tử mà ông đánh giá sáng dạ nhất. Ðó cũng là người học trò đầu tiên của ông. Anh ta tên Bảo, thường gọi là Một. Chỉ vài hôm theo học, anh ta dường như thuộc hết bí quyết của thầy. Một sáng đẹp trời, khi hai thầy trò đang ngồi ăn sáng thì công an đến còng tay Một đưa đi. Ông Ba Xê ngớ người khi nghe giải thích học trò cưng của ông chính là thủ phạm trong vụ trộm động trời tại tiệm thuốc bắc Bảo An Ðường tối qua. “Nó mở được tất cả cửa trong nhà thuốc này để đồng bọn vơ vét sạch sẽ. Sau khi đãi tôi chầu ăn sáng, nó bị cảnh sát hình sự tóm cổ, ở tù hết 7 năm. Mình rút ruột dạy đạo đức nghề, đứa nào theo được thì ăn nên làm ra, đứa nào phản nghề thì coi như xong đời”, ông Ba Xê đúc kết.
Tự chặt tay vì giúp nhầm kẻ gian
Ông Ba Xê và các lão làng trong nghề thợ khoá Cà Mau vẫn hay ngồi nhắc nhau, nhắc các đệ tử câu chuyện chặt bỏ lóng tay của ông Sáu Khoá ở Cần Thơ. Thời đó, trước năm 1975, ông Sáu Khoá là thợ có tiếng khu vực Hậu Giang. Ông được người đàn ông nhờ đến nhà mở két và được thưởng hậu. Nhưng sau đó, ông bị toà án kết án 6 tháng tù treo vì cái tội đồng phạm với ông chồng trộm cắp tài sản riêng của bà vợ. Khi bị tuyên án xong, ông Sáu Khoá về nhà chặt liền 1 lóng tay ngón trỏ trái để nhớ đời. Ông thề nếu không đủ vợ, đủ chồng thì nhất định phải có công an ông mới mở khoá tủ sắt.
Trang Mysteriousworld vừa liệt kê danh sách những thành phố có kênh rạch đẹp nhất thế giới, trong đó Cần Thơ được ca ngợi là nơi có kênh đào đẹp với chợ nổi và cảnh giao thương tấp nập.
Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối liền quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ và thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. – Ảnh: Van Long Bui
Cần Thơ, Việt Nam
Cần Thơ, một trong những thành phố lớn của Việt Nam, là trung tâm của mạng lưới sông rạch ở đồng bằng sông Cửu Long. Tổng chiều dài giao thông đường thuỷ của thành phố đạt hơn 1.000 km.
Ngoài mạng lưới rộng lớn của các kênh rạch, chợ nổi là điểm thu hút du lịch chính của thành phố Cần Thơ, trong đó phải kể đến chợ nổi Cái Răng. Các thuyền buôn dưới sông cung cấp cho bạn các loại hàng hóa. Tham gia tour du lịch trên chợ nổi là cách tuyệt vời để trải nghiệm miền sông nước và khám phá đời sống văn hoá địa phương nơi đây
Venice, Italy
Venice là thành phố duy nhất nằm trên một nhóm 118 hòn đảo được ngăn cách bởi các kênh đào. Nơi đây có khoảng 179 kênh đào và các hòn đảo được kết nối với nhau thông qua hơn 400 cây cầu. Được mệnh danh là “thành phố kênh đào đẹp nhất hành tinh”, Venice hàng ngày đón hơn 50.000 lượt khách tham quan đến chiêm ngưỡng và khám phá.
Phương tiện giao thông chính ở đây là tàu thuyền, được gọi với cái tên là Gondola. Ngày nay, toàn thành phố có hơn 350 Gondola và hầu hết chuyến du lịch không thiếu vắng hình thức vận chuyển này.
Kênh đào Grand Canal có chiều dài 3.800 m được xem là đường thuỷ chính ở Venice. Ngoài việc ngồi thuyền Gondola thong dong trên Grand Canal và các kênh rạch nhỏ khác, bạn cũng có thể thưởng thức vẻ đẹp hấp dẫn của những cung điện và nhiều toà nhà lịch sử khác.
Venice, Italy
Birmingham, Anh
Với hơn 1,9 triệu cư dân sinh sống, Birmingham là thành phố đông dân thứ hai ở Anh. Bên cạnh sự đông đúc, tấp nập của một đô thị sầm uất, Birmingham còn có nhiều kênh đào đẹp kéo dài hơn 160 km.
Kênh đào đầu tiên của thành phố được mở năm 1769 để kết nối Birmingham với thị trấn Wednesbury. Những hành trình du lịch qua những kênh đào của Birmingham tạo cơ hội ngắm cảnh lý tưởng trong lòng thành phố.
Birmingham, Anh
Giethoorn, Hà Lan
Gietoorn là một ngôi làng kênh đào tuyệt đẹp nằm ở tỉnh Overijssel của Hà Lan. Vùng đất này được ngăn cách bởi những kênh rạch và kết nối bởi 180 cây cầu nhỏ. Nơi đây còn được gọi là “Venice của Hà Lan”. Ngôi làng này “nói không” với xe hơi, vì cách duy nhất để tiếp cận là đi bằng thuyền và xe đạp.
Giethoorn, Hà Lan
Tô Châu, Trung Quốc
Thành phố lịch sử Tô Châu được nhiều người ngưỡng mộ bởi vẻ đẹp của những khu vườn và các kênh đào của nó. 15 kênh đào nhỏ ở đây đan chéo nhau, trong đó có kênh đào dài nhất xấp xỉ Grand Canal ở Venice, Italy, được xây dựng giữa năm 581 và 618. Giống như Grand Canal, kênh đào ở Tô Châu cũng len lỏi qua nhiều nơi đẹp trong lòng thành phố.
Tô Châu, Trung Quốc
Alleppey, Kerala, Ấn Độ
Được mệnh danh là “Venice của phương Đông”, thành phố đẹp như tranh vẽ Alleppey, nằm ở bang Kerala, miền nam Ấn Độ, có một mạng lưới rộng lớn các đầm phá, sông và hồ với chiều dài lên đến 1.500 km.
Vùng nước trũng Vembanad là một trong những phần đẹp nhất của bang Kerala, nằm trong lòng thành phố Alleppey. Ngoài ra, hồ Vembanad rộng lớn với diện tích bề mặt hơn 2.000 km vuông. Cả hai cũng bao gồm một mạng lưới kênh đào.
Bạn có thể thuê nhà thuyền, thuyền tốc độ nhanh để tham quan các kênh đào ở thành phố Alleppey. Bạn sẽ cảm nhận và khám phá được nhiều khía cạnh về văn hoá và vẻ đẹp tự nhiên ngoạn mục ở nơi đây.
Alleppey, Kerala, Ấn Độ
Stockholm, Thụy Điển
Stockholm, thủ đô của Thụy Điển được xây dựng trên 14 hòn đảo xinh đẹp ở hồ Malaren. Các quần đảo rộng lớn ở đây kết nối thành phố với biển Baltic về phía đông. Do đó, chèo thuyền là cách trải nghiệm thú vị để tham quan thành phố.
Các vùng nước ở đây rất sạch sẽ, thích hợp cho bơi lội và câu cá. Stockholm cũng là một trong những thành phố xanh của thế giới với hơn 12 công viên rộng lớn và được biết đến với quá trình thanh lọc chất thải tốt.
Stockholm, Thụy Điển
Bruges, Bỉ
Bruges, thành phố lớn thời trung cổ, nổi tiếng với những con kênh đẹp từ nhiều thế kỷ. Các tuyến đường thuỷ ở Bruges còn được gọi là “Venice của phương Bắc”. Tour du lịch kênh đào là cách tốt nhất để khám phá thành phố này.
Những con kênh đào thơ mộng kết nối với các phần chính của Bruges, do đó bạn có thể tiếp cận bằng nhiều dịch vụ thuyền ở thành phố từ địa điểm khác nhau. Thường mỗi chuyến tham quan kéo dài 30 phút và bạn sẽ có cái nhìn ấn tượng về thành phố cổ này từ trên mặt nước.
Bruges, Bỉ
Bangkok, Thái Lan
Hệ thống kênh rạch là một phần không thể thiếu của thành phố Bangkok từ thế kỷ 18. Các tuyến đường thủy đầu tiên được đào để bảo vệ biên giới.Trong suốt thế kỷ 19, hệ thống kênh ở Bangkok mở rộng nhanh chóng cho thủy lợi và giao thông vận tải. Ngày nay, nhiều trong số những kênh rạch được sử dụng cho mục đích thoát nước. Tuy nhiên vẫn còn những hệ thống kênh đóng một vai trò quan trọng trong việc vận chuyển của đất nước.
Các hệ thống kênh rạch ở Bangkok thường được gọi là Klong. Khlong Saen Saeb là kênh đào còn lại chủ yếu ở thành phố Bangkok với chiều dài 18 km, chạy từ phía đông đến phía tây của thành phố. Đi tàu ở Khlong Saen Saeb là cách tốt nhất để tham quan, ngắm cảnh và tìm hiểu về những địa danh lịch sử và các trung tâm mua sắm.
Các chợ nổi là một phần quan trọng của tuyến đường thủy Bangkok. Nhiều tàu thuyền thương mại đầy màu sắc, buôn bán các mặt hàng địa phương ngay tại các kênh rạch, thực sự tạo cho du khách nhiều trải nghiệm thú vị. Damnoen Saduak, Amphawa, Taling Chan, Khlong Lạt Mayom, Bang Nam Pheung là năm chợ nổi chính tại thành phố Bangkok.
Bangkok, Thái Lan
Cape Coral, Florida, Mỹ
Thành phố Cape Coral ở Florida được biết đến với chiều dài bờ sông lên đến 640 km. Nó dài hơn hệ thống kênh của bất kỳ thành phố nào khác trên thế giới. Cape Coral có cả hồ nước ngọt và nước mặn. Các kênh nhân tạo của thành phố được đào trở lại vào năm 1970. Hệ thống này cũng cung cấp đủ nước cho thủy lợi và bảo vệ thành phố khỏi lũ.
Việt Nam không những nổi tiếng với sự phong phú của các loài cá mà các loại mắm cũng góp phần tạo nên hương vị đặc trưng cho ẩm thực nước ta. Mỗi một vùng miền có loại mắm riêng như mắm ruốc, mắm cá, mắm còng, mắm tôm,… Cùng đi qua những miền đất này nhớ thưởng thức nhé.
Các loại mắm nổi tiếng của Việt Nam
Mắm tôm:
Các loaại mắm nổi tiếng tại Việt Nam thì không ai là không biết đến mắm tôm tại miền Bắc, thứ đặc sản có màu sim chín với mùi vị đặc trưng khó lẫn. Loại mắm này được làm chủ yếu từ tôm và muối ăn lên men để tạo mùi vị và màu sắc đặc trưng. Mắm tôm có mặt trong nhiều món ăn dân dã, có thể pha đường và cốt chanh để chấm bún, đậu, cà pháo,… hoặc trở thành gia vị cho món bún riêu, bún thang, giả cầy và để nấu canh cua.
Mắm tôm
Mắm ba khía:
Ba khía là một loài họ cua có càng to, đặc trưng ở vùng Nam bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn, có nhiều nhất ở U Minh. Do có ba gạch ở trên lưng nên được đặt tên ba khía. Nhắc đến mắm ba khía thì phải nhắc đến những món ăn như gỏi ba khía đu đủ, mắm ba khía trộn chua ngọt, mắm ba khía trộm thịt bò.
Mắm ba khía
Mắm ruốc:
là món mắm đặc trưng của Huế, tuy nhiên mỗi miền có cách làm khác nhau, nhưng nhìn chung đều có vị mặn và mùi đặc trưng. Mắm ruốc miền Nam có màu nâu tím, ruốc miền Trung có màu nhạt hơn.
Tại miền Nam, mắm ruốc thành phẩm thường được dùng làm gia vị nêm nếm, ăn ngay, hoặc chế biến, trong đó mắm ruốc xào thịt ba chỉ là món được nhiều người ưa chuộng bởi vừa ngon miệng vừa bảo quản được lâu.
Mắm ruốc
Mắm tôm chua:
Là đặc sản miền Trung nhưng mắm tôm chua nổi tiếng nhất vẫn là ở Huế, Đà Nẵng Món mắm này được làm từ tôm rằn tươi, đem ngâm rượu rồi xóc muối, trộn với riềng, tỏi, ớt cùng chút mắm, đường. Sau thời gian ủ kín, tôm sẽ đổi màu đỏ tươi và thơm nức. Khác với mắm tôm mặn mịn và nhuyễn, mắm tôm chua có màu đỏ và con tôm còn nguyên hình.
Mắm tôm chua
Mắm sò:
Sò huyết có mặt ở hầu khắp các vùng, miền, thế nhưng không phải loại sò huyết nào cũng làm được mắm mà chỉ có sò huyết Lăng Cô (Huế) mới có thể chuyển mình thành món mắm có hương thơm độc đáo, dịu nhẹ cùng vị cay quyện trên đầu lưỡi.
Mắm sò
Nước mắm:
Những vùng nổi tiếng với nước mắm là Cát Bà Hải Phòng, Phan Thiết Bình Thuận, Nha Trang Khánh Hòa và đặc biệt là Phú Quốc Kiên Giang mỗi nơi sẽ có bí quyết làm mắm riêng có cơ hội đến du lịch Phú Quốc bằng tàu bạn nên tìm hiểu và mua những chai nước mắm đặc sản về làm quà.
Nước mắm
Mắm Còng:
Mắm còng phổ biến ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và là đặc sản nổi tiếng của Long An, Bến Tre, Tiền Giang. Mắm được làm từ con còng – một loại thuộc họ cua, nhỏ. Còng sau khi được tách yếm, có thể phơi nắng rồi cho vào hũ ủ cùng các loại gia vị trong khoảng 45 ngày. Mắm còng dùng chung với cơm, hay cuốn chấm với thịt luộc, rau sống, bánh tráng, tăng vị cho bún riêu. Có dịp du lịch miền Tây bạn nhớ thường thức loại mắm này nhé.
Mắm Còng
Mắm hò hóc:
một đặc sản của người Khmer được làm từ cá và xuất xứ từ Campuchia. Mắm hò hóc có thể ăn vả cùng cơm song cũng có thể kết hợp với hàng trăm nguyên liệu khác để tạo ra hàng ngàn món ăn khác nhau.
Mắm hò hóc
Mắm nêm:
Để làm món mắm này, cá được ướp muối, sau đó ủ khoảng 3 tháng rồi múc ra chén, thêm đường, chanh, tỏi bằm nhuyễn và ớt nguyên trái dằm vào, trộn đều lên là được. Ngoài bánh tráng cuốn thịt heo, mắm nêm có thể ăn với hầu hết các món làm từ bột như bún, bánh ướt…
Mắm nêm
Mắm mực:
Mắm mực chỉ phổ biến ở miền biển và nằm trong danh sách những món ăn chỉ dành cho đãi người quen bởi lẽ chỉ có thể làm mắm mực từ những con mực còn tươi nguyên vì thế những tàu đánh bắt xa bờ không đủ điều kiện để làm mắm mực vì thế cư dân đi biển chế biến ngay trên tàu. Có dịp đi tàu bạn nên thưởng thức món mắm mực.