Lễ hội Óc om bóc hay đua ghe ngo truyền thống của người Khmer là một trong những lễ hội lớn mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự gắn bó cộng đồng của người Khmer Nam bộ và tinh thần đoàn kết, thủy chung của 03 dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Trong lễ hội Óc om bóc, có nhiều lễ: lễ cúng trăng, lễ thả đèn nước, lễ thả đèn gió… và sinh động nhất là hội đua ghe ngo. Năm 2013, hội đua ghe ngo được nâng lên thành Festival Đua ghe ngo, mang tầm khu vực và quốc gia.
Chiếc ghe ngo mang nhiều ý nghĩa, giá trị văn hóa đặc trưng riêng biệt của người Khmer.
Ghe ngo không phải là sản phẩm của một cá nhân hay một tập thể bất kỳ nào. Mỗi chiếc ghe ngo là do một ngôi chùa, đại diện cho một hay nhiều phum sóc người Khmer, tạo ra và tham gia tranh tài. Do đó, sự thắng bại giữa các ghe ngo thực chất là sự thắng bại giữa các chùa, sự thắng bại giữa những phum, sóc người Khmer với nhau.
Sự thành bại của ghe ngo trong hội đua còn là niềm vinh dự, là tiếng thơm của ngôi chùa, của một địa phương tham gia thi đấu. Vì vậy, nhằm để tạo nên sự thành công của ghe đua, người Khmer Nam Bộ đã vận dụng nhiều phương thức, kỹ thuật khác nhau trong việc tạo ra ghe ngo cũng như trong tham gia thi đấu. Yếu tố tâm linh cũng là một trong những yếu tố giúp thành công cho ghe ngo
Ghe ngo nguyên thủy là một chiếc thuyền độc mộc, khoét ruột từ một thân cây, nhưng này nay, việc tìm cây sao vừa to, vừa dài rất khó khăn, nên người Khmer đã dùng những mảnh ván với nhau để thay thế.
Ghe ngo được làm gần giống hình con rắn dài khoảng từ 25 đến 30m. Ở giữa chỗ rộng nhất là 1,1m. Đầu được uốn cong lên, như hình đầu rắn. Ở đuôi ghê hay gọi là sau lái cũng được uốn cong lên nhưng cao hơn phía đầu một chút. Người ta đóng từ 24 đến 27 cây thanh ngang trên chiếc ghe, để vừa cho hai người ngồi. Mỗi ghe phải đảm bảo từ 40 đến 60 người ngồi bơi và chỉ huy, như ghe ngo chùa Bốn Mặt (Sóc Trăng) có 53 người, ghe ngo chùa Ông Mek (Trà Vinh) 57 người.
Dù cho ghe có bao nhiêu vận động viên, nhưng luôn luôn có ba người điều khiển, một người ngồi mũi chuyên về chỉ đạo tâm linh của ghe đua, tổ chức lễ cúng xuống ghe, chỉ đạo toàn ghe, điều khiển kỹ thuật bơi của ghe đua; Một người ngồi giữa và một người ngồi đuôi giữ nhiệm vụ thổi còi để thúc giục và điều chỉnh kỹ thuật bơi của các vận động viên.
Mỗi chiếc ghe có một biểu tượng riêng, đây là dấu hiệu để ghi nhớ mà còn thể hiện sức mạnh của ghe đua, thường được chọn cho quan niệm truyền thống của từng chùa, như các con vật có sức mạnh, hoặc có khả năng chạy nhanh…
Biểu tượng ghe ngo chùa Bốn Mặt (Sóc Trăng) là con chim, Chùa Champa (Sóc Trăng) chọn biểu tượng con cọp, chùa Ông Mek (Trà Vinh) biểu tượng con cá nược…Người Khmer tin rằng, trong quá trình thi đấu, ghe ngo sẽ có khả năng lao đi với tốc độ nhanh và mạnh như con vật được chọn làm biểu tượng. Hai bên thân ghe, mũi ghe và đuôi ghe được trang trí hoa văn, màu sắc phù hợp với biểu tượng của ghe để tạo nên sức mạnh. Nếu biểu tượng của ghe là rắn thần Naga, thì các họa tiết hai bên sườn ghe cũng toát lên được hình ảnh của một con rắn, khi ghe lướt sóng, người xem sẽ có cảm giác như xem hình ảnh một con rắn thần đang lượn sóng.
Để tạo nên sức mạnh giúp ghe di chuyển nhanh trong khi thi đấu, người Khmer đã dùng một cây hoặc hai cây dài cột chặt vào giữa ghe. Người Khmer gọi là cây cần câu, một số nơi gọi là cây kềm. Cây này có tác dụng như đòn bẩy, đẩy ghe lướt nhanh về phía trước. Đó là cây gỗ tốt, rất cứng, thường là cây sao có đường kính khoảng 0,2m.
Đầu mỗi chiếc ghe đều vẽ hai mắt nổi, để ghe thấy đường đi và tránh nguy hiểm. Quan niệm này gần giống với tục vẽ mắt cho thuyền đã có từ lâu đời ở Nam Bộ.
Ghe ngo chỉ được sử dụng vào việc thi đấu, mội hoạt động liên quan đến ghe đều phải cử hành lễ cầu xin, như: lễ khởi công làm ghe ngo, lễ khánh thành ghe ngo, lễ mặc áo cho ghe ngo
Ghe Ngo cùng với dàn nhạc ngũ âm trở thành 2 tài sản văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo độc đáo và quý giá của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.
Cá lóc hấp mẻ
Đồng bằng sông Cửa Long là “vựa” cá đồng rất phong phú. Trong các loài cá nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửa Long thì cá lóc là đặc sản tiêu biểu nhất. Cá lóc hấp mẻ là một món ăn của vùng đất Cần Thơ, rất bình dân nhưng không kém phần hấp dẫn
Cá Lóc chế biến cũng rất đơn giản, không cần đánh vẩy, cạo nhớt, mổ ruột, hay tẩm ướp gia vị trước. Đặc biệt cá ở đây là cá đồng nên khi ăn thịt rất thơm, mềm, dai rất ngon. Và Cơm mẻ là chất làm chua từ cơm nguội cho lên men, có vị chua dịu, rất đặc trưng.
Hành củ cắt lát mỏng, hành cọng cắt khúc dài, lót dưới khay. Cá ngâm nước muối vài phút, rửa thật sạch, cho lên trên khay. Phủ một chén cơm mẻ lên mình cá, để lửa sôi liu riu. Thấy da cá nhăn nhíu lại là cá đã chín.
Món này ăn với bánh tráng cuốn tép luộc cùng với rau thơm, khế xanh, xà lách, chuối chát, bún và thịt lỗ tai heo luộc! Nước chấm có thể là nước mắm me hoặc chút cơm mẻ dầm muối ớt.
Vị chua nhẹ, dịu của cơm mẻ, thịt cá thơm lừng, vị ngọt lựng của hành gốc, làm cho bạn thấy ngon miệng!
Cá Kèo nướng ống sậy
Cá kèo nướng ống sậy rất được ưa chuộng tại Việt Nam do có hương vị riêng, trắng ngon và giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt túi mật để lại hương vị khó quên.
Cá kèo còn gọi là cá bống kèo, sống ở vùng phù sa ngập mặn. Cá thường phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, nhất là tại các khu vực ao, hồ, nước lợ thuộc các tỉnh tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang,
Cá kèo có thể chế biến cá kèo thành nhiều món ăn như: kho tiêu, chiên giòn, kho rau răm, nướng muối ớt, nướng bơ tỏi, lẩu mắm cá kèo, cháo cá kèo… và thêm một món vừa cầu kỳ, vừa dân dã chính là cá kèo nướng ống sậy.
Sậy để nướng cá kèo nên chọn sậy non, mập và nhiều nước, cắt từng đoạn, có đầu rỗng để đưa cá vào. Cá kèo còn sống rửa sạch rồi ướp gia vị. Khi nhét cá vào sậy, chừa phần đuôi thòi ra. Cho lửa than hồng riu riu. Cách nướng trực tiếp này làm cho cá kèo mềm hơn, ngọt hơn, nhất là nước ống sậy tươm ra thấm vị ngọt và mùi thơm đặc trưng của sậy. Khi ống sậy vừa vàng, xẹp xuống nhanh là cá cũng vừa chín nhờ sức nóng của nước ống sậy tiết ra.
Rau thơm, chuối chát là món ăn kèm cùng cá. Cá nướng ống sậy không kén thức chấm. Chỉ cần muốt ớt chanh là đủ.
Xé ống sậy ra, hơi nóng từ con cá bốc lên, cho miếng cá vào miệng, vị ngọt của cá hòa cùng vị ngọt của sậy. Vị cay, mặn, chua của muối ớt chanh cho ta hương vị rất lạ, ngon không chê vào đâu được. Vị ngon của cá bống kèo tập trung ở gan, mật, vừa béo vừa nhân nhẫn nhưng hậu rất ngọt.
Hãy cùng chúng tôi thưởng thức món ăn đậm đà bản sắc Nam bộ
Cá rô kho tộ đậm đà hương vị miền Tây
Dù có hơi nhiều xương, nhưng cá rô lại rất nổi tiếng với vị béo, thơm, dai, ngon. Nếu có dịp, bạn nên thưởng thức món cá rô kho tộ, đây là món ăn được xem như món ăn độc đáo của miền Tây Nam Bộ.
Cá rô kho tộ mang hương vị đồng quê, nguyên liệu sử dụng dân dã là cá rô và cách chế biến cũng đơn giản nhưng lại là sự lựa chọn cho bữa cơm ngon.
Để làm được món này nhất thiết phải có cái “tộ”, tộ là dùng để ám chỉ cái tô đất hay nồi đất. Ngày nay có thể do lối sống dần hiện đại hơn trong gian bếp nhiều nhà không còn cái nồi đất nữa. Tuy nhiên, đa số người nội trợ khẳng định kho cá trong tô đất hay nồi đất thì cá mới ngon, mới mang hương vị đặt trưng mà không loại nồi nào có thể thay thế.
Nguyên liệu:
Cá rô
Thịt ba chỉ
Hành lá, ớt và gia vị
Cách làm:
– Cá làm sạch, thịt ba chỉ cắt miếng mỏng vừa ăn, để thật ráo nước.
– Ướp cá, thịt trong nồi đất với nước màu, ít đường, bột ngọt, nước mắm, hạt nêm, ớt. Để thấm trong 15 phút.
– Đặt nồi lên bếp kho với lửa nhỏ. Khi nước trong nồi sôi đều, cá đã thấm gia vị thì cho thêm nước lọc vào.
– Tiếp tục kho đến khi cá, thịt chín và nước trong nồi còn xăm xắp nước, nêm lại vừa ăn sao cho vừa mặn lại vừa ngọt, thêm đầu hành và tiêu xay.
Khi trời chiều chuyển mưa, thời tiết có hơi se lạnh là lúc rất thích hợp để thưởng thức món cá rô kho tộ cùng chén cơm nóng. Giẽ miếng thịt cá rô, vị ngọt của cá hòa lẫn với mùi thơm của hành, vị cay cay của tiêu, ớt và cái mùi đặt trưng của “kho tộ” thì không thể lẫn vào đâu được. Chắc chắn bạn sẽ có một bữa cơm thật ngon miệng dù món ăn rất dân dã nhưng đậm đà hương vị miền Tây…
[vanhoamientay.com] Thời tiết mát mẻ cuối tuần rất thích hợp để cùng thưởng thức những món ăn ngon từ ếch. Và món ếch chiên rơm hay còn có tên gọi khác là ếch leo rào, ếch núp lùm là món ăn được khá nhiều người yêu thích.
Nếu bạn là người lần đầu ăn món ăn này thì sẽ cảm thấy khá bất ngờ với tên gọi và cả khi dĩa thức ăn được mang ra. Tên gọi là ếch chiên rơm làm ta liên tưởng đến những sợi rơm, những“sợi rơm” này nhìn rất giống rơm nhưng hoàn toàn ăn được nhé. Thật chất đó là sả tươi chiên giòn có ướp gia vị rất thơm, lạ miệng cùng với nhiều gia vị và cách làm đặc biệt.
Tưởng chừng đây là những sợi “rơm” trang trí thôi nhưng chúng khá là ngon nhé.
Những miếng ếch được chiên vàng phủ lên trên là những sợi sả giòn đã được chế biến công phu, trông vô cùng bắt mắt và ngon miệng.
Chắc chắn bạn sẽ không thể quên món ăn này nếu đã từng thưởng thức.
Và nếu cuối tuần muốn trổ tài món ăn này tại nhà thì dưới đây là công thức thực hiện nhé.
Nguyên liệu:
– Ếch đồng khoảng 300 gram
– Sả cây tươi khoản 100gram
– Gia vị đơn giản gồm có bột ngọt, nước mắm và tiêu.
Cách làm:
– Ếch đồng sơ chế rửa thật sạch, để ráo nước và chặt thành miếng vừa ăn
– Tiếp theo là chế biền Rơm: Sả cây đập tơi ra xé ra cho thành rơm, ướp với bột ngọt, nước mắm, tiêu.
– Ếch chiên qua dầu, để riêng.
– Rơm đã ướp, áo qua bột khô cho vào chảo dầu và chiên giòn.