Mứt dừa – Phải công nhận, mứt dừa là loại mứt rất quen thuộc trong Nam, quen thuộc đến độ khi nhắc đến tên nhiều người sẽ nghĩ ngay đến Tết, nhớ đến ngay hương vị của món ăn. Đó là vị béo vừa phải của dừa, vị ngọt của đường, sữa, mùi thơm từ vani.
Kể đến chuyện mứt Tết, chẳng ai bỏ quên được mứt dừa thơm bùi, dễ chế biến chiều lòng tất cả mọi người, nhất là những cô nàng hảo ngọt. Có lẽ vì thế mà thời gian gần đây, thay vì mua mứt làm sẵn nhiều người đã tự tay làm món trong dịp Xuân về. Tuy nhiên, để được món mứt dừa ngon, dẻo và ngọt vừa phải, thì không phải ai cũng có thể làm được.
Cách chọn nguyên liệu làm mứt dừa dẻo, ngọt:
Cơm dừa (còn gọi là cùi dừa): 1kg
Đường: 500g
Sữa đặc: 1 muỗng
1 ống vani Để có món mứt ngon, khâu chọn nguyên liệu vô cùng quan trọng, dừa làm mứt phải là dừa bánh tẻ, tức là cơm dừa không quá già, cũng không quá non. Nếu cơm dừa già sẽ khó nạo mứt lại sẽ khô, còn dừa non quá rất khó sên, hay bị nát. Chọn cơm dừa bánh tẻ, mứt sẽ ngon và dẻo hơn. Bạn có thể quan sát, loại cơm dừa bánh tẻ sẽ có phần vỏ sát bên ngoài màu nâu nhạt. Dùng tay bấm thử vào thấy hơi mềm. Còn cùi dừa đã già thì vỏ sát cùi có màu nâu sẫm và cứng.
Dừa sau khi mua về mà lớp vỏ chưa bóc tách thì mẹo này sẽ giúp bạn tách dễ dàng: Cho dừa lên bếp và hơ qua vỏ hoặc cho dừa vào lò nướng 20 phút ở mức nhiệt 110 độ C. Nếu bạn không có nhiều thời gian hoặc chưa có kinh nghiệm bạn có thể mua những quả dừa đã được bóc sẵn vỏ trong siêu thị hay ngoài chợ. Cách thực hiện làm mứt dừa dẻo, ngọt: Gọt sạch lớp vỏ sát bên ngoài Bổ đôi quả dừa ra và bắt đầu bào theo chiều ngang (theo vành ngang vừa cắt) để được sợi dài và mỏng. Sau khi bào xong, bạn nên rửa vài lần và ngâm vào nước sạch trong khoảng 12 – 14 giờ để loại bớt dầu dừa. Tiếp tục vớt cơm dừa ra và rửa với nước sạch thêm 2 – 3 lần cho hết hẳn dầu và để ráo nước. Bạn cũng có thể ngâm cùi dừa vào nước ấm trên 50 độ để khử dầu dừa nhanh và tiết kiệm thời gian.
Khi cơm dừa đã khô ráo nước, bạn trộn đường vào, để dừa ngấm đường hơn bạn nên ướp qua đêm hoặc chờ đến khi đường tan và thấm hết vào sợi dừa. Lúc đó sợi dừa đã chuyển sang màu trắng trong. Bạn có thể thêm sữa, chỉ cần một chút sữa đủ để làm món này thơm và dậy mùi hơn là được. Tiếp theo, dùng một cái chảo to, dày, bật lừa thật to để làm nóng chảo trước, khi cảm thấy chảo đã bắt đầu nóng thì đổ hỗn hợp cơm dừa vào, chỉnh lửa nhỏ lại và đảo liên tiếp, sên nhẹ nhàng tránh đứt gãy sợi và khê, vón cục đường. Cho một ít vani vào để mứt được thơm hơn.
Khi thấy có phấn trắng bám lên sợi dừa và sợi dừa dần tách rời nhau bạn cho ít vani để tạo mùi thơm cho món mứt sau đó, bạn tắt bếp và đảo thêm một chút cho nguội hẳn. Sau đó trải mứt ra 1 cái mâm, khi mứt nguội thì cất vào lọ kín để bảo quản. Thật đơn giản và dễ làm nhưng nó cũng không kém phần công phu để có món mứt dừa ngon và dẻo mà không chỉ trẻ em mà người lớn đều thích. Các bạn hãy thử làm món mứt dừa này vào dịp Tết 2017 này nhé. Ngoài ra, VHMT mách bạn cách tạo màu đơn giản cho món mứt thêm hấp dẫn hơn.
* Cách tạo màu cho mứt dừa: Thường thì mứt dừa có màu trắng nguyên thuỷ, bạn cũng có thể tạo thêm màu cho mứt hấp dẫn hơn nhất là đối với các bạn nhỏ. Bạn có thể tạo màu đỏ cho mứt từ quả gấc, màu cam từ cà rốt, màu tím từ bắp cải tím…
Cách làm tương tự như hướng dẫn trên chỉ cần bạn chú ý vài điểm sau: Cho phần cơm dừa đã rửa sạch vào nước rau củ và ướp trong khoảng 4-5 tiếng cho dừa ngấm màu. Ở đây chúng ta sẽ bỏ qua công đoạn ướp đường. Cho cơm dừa ướp màu và đường vào thẳng chảo, đun cho đến khi đường tan thì cho dừa vào sên. Lúc đầu để ở mức lửa trung bình, khi nước đường sôi thì hớt bọt nếu có, thỉnh thoảng dùng đũa đảo đều. Khi nước đường cạn chỉ còn sền sệt thì hạ lửa nhỏ liu riu, lúc này dùng đũa đảo đều liên tục để đường kết tinh bám đều vào dừa. Vậy là bạn đã có món mứt dừa với màu sắc mình yêu thích. Chúc các bạn thành công.
Hủ tiếu Pa tê ở Bến Tre
Hủ tiếu pa tê là một trong bốn loại hủ tiếu được người dân xứ dừa đặc biệt ưa chuộng. Sự khác biệt của món hủ tiếu này nằm vỏn vẹn trong ba bốn lát pa tê xắt góc tư xếp gọn gàng trên mặt tô.
Người Bến Tre rất ưa hủ tiếu, ưa hơn bất cứ người dân ở miền Tây nào mà tôi biết. Ở đây người ta có thể ăn hủ tiếu tối ngày, từ hủ tiếu chay, hủ tiếu bò viên, hủ tiếu xương heo đến hủ tiếu thập cẩm… Và cũng duy chỉ có ở Bến Tre mới có món hủ tiếu không đụng hàng: hủ tiếu patê.
Người Bến Tre rất ưa hủ tiếu, ưa hơn bất cứ người dân ở miền Tây nào mà tôi biết. Ở đây người ta có thể ăn hủ tiếu tối ngày, từ hủ tiếu chay, hủ tiếu bò viên, hủ tiếu xương heo đến hủ tiếu thập cẩm… Và cũng duy chỉ có ở Bến Tre mới có món hủ tiếu không đụng hàng: hủ tiếu patê.
Pa tê ở đây không phải là loại pa tê gan dùng để phết lên mặt trong bánh mì mà mọi người thường gọi. Pa tê theo cách gọi của người Bến Tre thực chất là một loại “chả” rất đặc biệt: dai giòn sần sật, thơm tho beo béo mà người dân xứ dừa hay làm thủ công đãi trong các bữa tiệc, chung với nhiều loại “đồ nguội” khác. Thành phần của “chả” gồm có lưỡi heo, da đầu, thịt nạc, da heo, mỡ, tiêu hạt, các loại gia vị và được pha trộn với công thức bí truyền nào đó để đạt đến độ dai mà không bở nát, có mùi thơm đặc trưng, ăn hoài không ngán, bó chặt thành từng đòn như bánh tét.
Trong các dịp đám tiệc ở địa phương, pa tê thịt heo được xắt thành từng lát mỏng, xếp chung với chả lụa, chả da đầu heo, nem chua và ít bánh phồng tôm để làm nên một món riêng mà người quê gọi là “đồ nguội”. Ngoài ra, đây là nguyên liệu chính làm nên món hủ tiếu pa tê mà người Bến Tre đi đâu cũng thèm, cũng nhớ. Hủ tiếu pa tê là một trong bốn loại hủ tiếu được người dân xứ dừa đặc biệt ưa chuộng (ba loại còn lại là hủ tiếu chay, hủ tiếu bò viên và hủ tiếu mực) và tôi đoan chắc rằng, chỉ ở Bến Tre mới có loại hủ tiếu này. Hủ tiếu Bến Tre nói chung và hủ tiếu pa tê nói riêng khác với hủ tiếu Sài Gòn trước hết ở sợi bánh. Sợi hủ tiếu khô và dai, khi có khách gọi chủ quán mới thoăn thoắt kéo lấy một vắt cỡ nắm tay, trụng sơ trong nước sôi chừng một phút cho nở mềm vừa ăn rồi mới cho ra tô. Sự khác biệt của hủ tiếu pa tê nằm vỏn vẹn trong ba bốn lát pa tê xắt góc tư xếp gọn gàng trên mặt tô. Nước dùng có ngọt đến mấy, sợi bánh có dai đến mấy mà miếng pa tê không vừa miệng thì coi như thất bại. Cái ngon của hủ tiếu pa tê chính là sự hòa quyện giữa các thành phần, để thực khách phải vừa xì xụp húp muỗng nước lèo thơm ngọt, vừa hít hà cắn miếng pa tê dai dai, giòn giòn mới chấm vào dĩa nước mắm trong dầm ớt.
Một tô hủ tiếu với ba hoặc bốn lát pa tê đối với nhiều người dường như chưa “tới”, ăn đến miếng pa tê cuối cùng rồi mà còn cảm giác thòm thèm nên kêu thêm vài lát chả không đem về nhà. Đặc biệt, nhà nào có trẻ con thì mấy lát pa tê chính là món ăn vặt ưa thích của chúng. Trước đây hủ tiếu pa tê chỉ đơn thuần có hủ tiếu và pa-tê, thỉnh thoảng có thêm vài lát thịt nạc. Nhưng ngày nay, để nồi nước dùng thêm đậm đà và cũng để thực khách có nhiều sự lựa chọn hơn, người ta có pa tê đi kèm với lồng, chủ yếu là tim, gan, bao tử và phèo non. Một tô hủ tiếu pa tê với đầy đủ tất cả các nguyên liệu ấy giá chỉ từ 25.000-30.000 đồng.
Hủ tiếu pa tê ở Bến Tre nổi tiếng như vậy nhưng vốn không phải là món bán đại trà. Người Bến Tre sành ăn chỉ đến đúng quán chính gốc mà người ta quen gọi là hủ tiếu “ngã ba Tháp” hay hủ tiếu “cổng chào”.
Khách ở nơi xa đến Bến Tre, muốn thưởng thức hủ tiếu pa tê “chính gốc”, cứ vào thành phố rồi nhắm người nào đó cũng được, hỏi thăm quán hủ tiếu ở “ngã ba Tháp”, hủ tiếu “cổng chào” hay hủ tiếu “công viên tượng đài”, chắc chắn ai cũng rành, chỉ cho bạn vanh vách. Quán không có tên riêng mà lấy luôn tên là “Hủ tiếu pa tê” như một cách khẳng định thương hiệu, chỉ bán buổi chiều tối nên cứ tầm 5, 6 giờ chiều là bắt đầu tấp nập khách ra vào. Nếu có dịp đến Bến Tre, nhớ tìm quán hủ tiếu patê mà thử qua một lần, cam đoan bạn sẽ nhớ mãi hương vị đặc biệt của thức ăn đặc biệt này.
Về với sân chim Vàm Hồ, Bến Tre
[vanhoamientay.com] Dọc ven bờ sông Ba Lai, sân chim Vàm Hồ, Bến Tre được bao phủ bởi hơn 15ha rừng chà là nguyên sinh và nhiều thảm thực vật phong phú .
Khu du lịch sinh thái sân chim Vàm Hồ có diện tích khoảng 68ha, thuộc địa bàn xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Từ thành phố Bến Tre theo đường tỉnh 885, đến thị trấn Ba Tri rồi rẽ về ngã Tân Xuân là đến Vàm hồ, đoạn đường dài khoảng 52 km. Vườn chim Vàm Hồ là hệ sinh thái đặc sắc, tiêu biểu cho rừng ngập mặn ven biển cửa sông Cửu Long, có giá trị sinh học cao và tiềm năng phát triển du lịch sinh thái.
Người ta biết đến vùng đất này từ hơn 100 năm nay với tên gọi là cù lao Lá, với độ cao trung bình khoảng 1,2 m so với mặt nước biển, Vàm Hồ là địa điểm lý tưởng cho các loài thực vật phát triển tạo thành một dãy rừng ngập mặn rộng hàng chục ha xuôi theo dòng Ba Lai.
Đó chính là nơi trú ngụ của hơn nửa triệu loài chim, sân chim Vàm Hồ có khoảng 84 loài thuộc 35 họ và 12 bộ khác nhau; đông đảo nhất phải kể đến cò trắng, cò ngang nhỏ, vạc, diệc xám…; các bụi cây thấp hơn là thế giới của các loài cuốc, bìm bịp, chèo bẻo….; dưới cùng là nơi sinh sống của các loài thú hoang dã như dơi, chồn, rắn, sóc, trăn….
Cứ đến mùa sa giông, khi những cơn mưa đầu nguồn kéo về (khoảng từ tháng 10 đến tháng 4 âm lịch), vườn chim Vàm Hồ lại trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Đây là thời điểm tốt nhất để các loài chim quần cư và sinh sản.Trên các ngọn chà là, tổ chim treo oằn những cành cây, không chỉ có các loài chim bản xứ, thỉnh thoảng, các loài chim di cư từ những vùng khác như Trung Quốc, Nga, Úc trên đường bay tới biển Đông ghé qua tá túc, tìm thức ăn rồi lại đi tiếp.
Đến đây du khách được đi dạo đường rừng, bơi xuồng len lỏi trong rừng ngập mặn, đến tham quan khu căn cứ kháng chiến, đi qua những chiếc cầu tre lắt lẻo, ngã lưng trên chiếc võng mắc đung đưa giữa hàng dương. Sau khi tận hưởng cảm giác hòa mình với thiên nhiên, du khách có thể thưởng thức các món ăn dân dã từ tôm, cá, rùa… vừa bắt từ dưới ao lên.
Những buổi chiều hoàng hôn với vô vàng âm thanh khác nhau của các loài chim khi kéo về tổ, du khách sẽ cảm nhận cuộc sống hoang dã, về với hệ sinh thái tự nhiên nhất, trong lành nhất của miền Tây đất nước.
Theo BenTre
Làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
Đã từ lâu, hình ảnh những chiếc bánh tráng – bánh phồng ở làng nghề nổi tiếng của huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre đã khá quen thuộc với du khách gần xa, chiếc bánh mộc mạc ấy đã dâng tặng cho đời những hương vị ngọt ngào, thấm đậm tình người, tình đất, tình quê. Để khi lúc đi xa, mỗi khi ăn những chiếc bánh ấy, chúng ta sẽ cảm nhận được những niềm nhớ thương dạt dào của quê hương xứ sở.
Nồng nàn hương vị bánh tráng Mỹ Lồng
Từ thành phố Bến Tre, xuôi theo tỉnh lộ 885 qua cầu Chẹt Sậy du khách đã đến với huyện Giồng Trôm, xã Mỹ Thạnh, nơi mà có một làng nghề bánh tráng nổi tiếng bao đời nay vẫn tồn tại, giữ gìn và phát triển cho đến hôm nay để tạo ra cho đời những chiếc bánh quê mộc mạc. Vừa đến làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, du khách sẽ bắt gặp hình ảnh dọc hai bên đường là những phên bánh tráng trải dài thẳng tắp, được hong dưới cái nắng mặt trời, trước sân nhà của những hộ dân nơi làng nghề là một màu trắng của những phên bánh tráng nối liền nhau từ nhà này sang nhà khác, sát mặt đường là những quầy hàng được bày bán với nhiều mặt hàng đặc sản khác nhau của Bến Tre để du khách lựa chọn, nhưng nhiều nhất vẫn là những chiếc bánh tráng Mỹ Lồng nổi tiếng, có cả bánh còn sống và cả bánh đã được nướng chín.
Mùi thơm của bánh tỏa ra khiến người lữ khách say nhừ như cách người ta vẫn thường ví với những người say men, nhưng đó là sự say của hương thơm ngào ngạt của loại bánh mộc mạc ở xứ dừa. Ở đây, nhà nhà, bất kể người già, trẻ con, thanh niên trai tráng đều tham gia, mỗi người một công đoạn, thuần phục, lành nghề.
Người dân ở đây rất chân chất và hiếu khách, vừa ngỏ ý vào thăm thì mọi người đã vui vẻ nhận lời, trò chuyện với cô Hồng- một thợ làm bánh có trên 25 năm tuổi nghề cô cho biết: “Làng nghề truyền thống làm bánh tráng này đã có từ lâu lắm rồi, nghe ông bà xưa kể lại chắc cũng cả trăm năm tuổi, qua bao thế hệ, gia đình tôi cũng gắn bó với nghề này, nó như một phần không thể thiếu trong gia đình tôi, lớn lên thì nối nghiệp, nghề sinh nghề là vậy, làm bánh không chỉ có thêm thu nhập mà làm bánh còn là một thú vui tao nhã, gia đình tôi quyết tâm giữ gìn không cho nghề này mai một theo thời gian”.
Muốn có chiếc bánh tráng Mỹ Lồng thật ngon thì khâu chọn và pha bột rất quan trọng, và thứ bột đó mới thật sự là bí quyết làm nên tên tuổi bánh tráng Mỹ Lồng. Gạo được chọn phải là gạo thơm vừa, nở nang, không được quá khô. Các nguyên liệu khác như: Đường, muối, mè cũng được cân định lượng cho đúng, nhưng với người thợ lành nghề, chỉ cần đong bằng mắt, bằng tay là không sai li nào, nhưng bí quyết chính thống có lẽ nằm trong phần nước cốt dừa béo ngậy của xứ sở quê hương. Theo người dân ở đây thì cái khác rõ rệt nhất của bánh tráng Mỹ Lồng với bánh vùng khác là bánh được làm từ gạo dẻo và nước cốt dừa đậm đặc…
Đây là đặc sản với nhiều loại bánh tráng khác nhau như: Bánh tráng sữa trứng gà, bánh ngang chỉ có dừa không sữa, bánh tráng sữa không dừa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách nhưng ngon nhất là loại bánh tráng dừa vừa béo vừa xốp, đặt lên lò than hồng đã tỏa hương thơm lừng làm ngất ngây lòng người.
Nghĩa tình chiếc bánh phồng Sơn Đốc
Cũng như Mỹ Lồng, làng nghề bánh phồng Sơn Đốc cũng lấy từ tên từ một địa danh của chợ Sơn Đốc thuộc xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm, nơi mà từ lâu đã nổi danh với loại bánh phồng nếp. Lúc trước, nghề làm bánh phồng của người dân ở đây còn tự phát, nhỏ lẻ, chủ yếu làm bánh phồng để phục vụ cho các lễ cúng ông bà tổ tiên, lễ Tết, hoặc để biếu người thân, bạn bè để làm quà, một số ít đem ra chợ Sơn Đốc bán để kiếm thêm thu nhập cho gia đình chứ chưa ai nghĩ đến việc loại bánh phồng nếp này lại nổi tiểng cho tới bây giờ.
Khi người ta mua loại bánh phồng nếp này về ăn thử, thấy ngon với hương vị rất lạ, vị ngọt của bánh, mùi thơm của mè, vị béo ngậy của nước cốt dừa, qua nhiều kênh thông tin khác nhau du khách các nơi mới biết ở Giồng Trôm có một loại đặc sản độc đáo như vậy, kể từ đó bánh phồng Sơn Đốc ngày càng được biết đến và vươn xa trong suốt chặng đường phát triển của làng nghề, bánh phồng Sơn Đốc đi khắp nơi trong nước kể cả nước ngoài, và tên tuổi trở thành thương hiệu hàng trăm năm nay.
Có lẽ làm bánh phồng còn cực hơn bánh tráng, bánh phồng được làm bằng loại nếp sáp, là giống nếp nổi tiếng của Bến Tre, gạo nếp đồ thành xôi rồi cho vào cối giã nhuyễn cùng với các phụ liệu khác như đường cát, nước cốt dừa…Đến làng nghề buổi sáng, chúng ta dễ dàng nhận biết nhà ai sẽ làm bánh phồng bằng cách nghe tiếng chày giã bột rộn rã. Đây cũng là công đoạn mệt nhất khi làm bánh phồng. Ngày xưa, công việc giã bột thường là công việc của đàn ông, thanh niên, hiện nay, khâu quết bánh phồng đã đỡ vất vả hơn nhờ có máy, giã xong bột sẽ chuyển sang khâu bắt bột và cán bánh.
Cũng như bánh tráng, phơi bánh phồng là cả một kỳ công. Nghề làm bánh tráng, bánh phồng luôn phải phụ thuộc vào thời tiết, ai cũng mong nắng tốt để công đoạn phơi bánh đỡ vất vả hơn, bánh sẽ ngon hơn. Bánh phồng Sơn Đốc khi nướng nở to gấp 3-4 lần so với trước khi đem nướng, bánh muốn ngon phải nướng trên bếp than hồng đỏ rực, bánh nướng chín thơm, xốp, ngon miệng. Hiện nay, ngoài loại bánh phồng nếp còn có bánh phồng mì, bánh phồng chuối để tạo nên sự đa dạng cho các loại bánh. Làm bánh tráng, bánh phồng thường thì theo mùa vụ, đặc biệt là những tháng giáp Tết Nguyên đán, người dân ở làng nghề phải thức thâu đêm. Từ năm 2007, bánh phồng Sơn Đốc được Cục sở hữu trí tuệ công nhận nhãn hiệu hàng hóa và được ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bến Tre công nhận là làng nghề truyền thống. Đây cũng là đòn bẩy làng nghề phát triển trong tương lai.
Thưởng thức bánh phồng, du khách mới cảm nhận cái giá trị tinh thần chứa đựng trong từng chiếc bánh mộc mạc ấy của người làm bánh. Cũng như bánh tráng, bánh phồng không hẳn là đặc sản riêng của Bến Tre mà một số tỉnh khác cũng có làm bánh phồng như: Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long,… Nhưng bánh phồng Sơn Đốc ngon không chỉ có bí quyết riêng, có hương vị dừa độc đáo mà bánh ngon còn bởi cái tình, cái nghĩa con người cũng thể hiện trong từng chiếc bánh, và chỉ có hương quê mới làm chiếc bánh thêm phần trọn vẹn.
Hàng năm, làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng và bánh phồng Sơn Đốc đóng góp hàng tỉ đồng trong GDP tỉnh, góp phần nâng cao đời sống cho người dân, giải quyết việc làm cho lực lượng lao động địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện nhà, đóng góp vào sự phát triển chung của làng nghề Bến Tre nói chung, làng nghề huyện Giồng Trôm nói riêng. Hiện nay, cả hai làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng và bánh phồng Sơn Đốc đã được nhiều du khách biết đến, đặc biệt là du khách quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành trong tỉnh và ngoài tỉnh, trong chương trình tour du lịch Bến Tre cũng đưa du khách đến tham quan trải nghiệm nhằm giới thiệu những nét độc đáo của làng nghề.
Năm 2013, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre đã triển khai dự án “Phát triển kinh doanh cho người lao động ở nông thôn” hỗ trợ công nghệ cho người dân ở làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng và bánh phồng Sơn Đốc, nâng thời gian bảo quản bánh từ ba tháng lên sáu tháng, trang bị ống đo độ đậm đặc của bột trước khi tráng bánh, bồi dưỡng kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, hỗ trợ vốn vay,…để đầu tư mua trang thiết bị, máy móc như: cối xay bột, máy nạo dừa, ép dừa, cối quết bánh, máy cán bánh phồng…nhằm nâng cao nâng suất lao động, tiết kiệm thời gian, cải tiến mẫu mã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
* Cách tạo màu cho mứt dừa: Thường thì mứt dừa có màu trắng nguyên thuỷ, bạn cũng có thể tạo thêm màu cho mứt hấp dẫn hơn nhất là đối với các bạn nhỏ. Bạn có thể tạo màu đỏ cho mứt từ quả gấc, màu cam từ cà rốt, màu tím từ bắp cải tím…
Cách làm tương tự như hướng dẫn trên chỉ cần bạn chú ý vài điểm sau: Cho phần cơm dừa đã rửa sạch vào nước rau củ và ướp trong khoảng 4-5 tiếng cho dừa ngấm màu. Ở đây chúng ta sẽ bỏ qua công đoạn ướp đường. Cho cơm dừa ướp màu và đường vào thẳng chảo, đun cho đến khi đường tan thì cho dừa vào sên. Lúc đầu để ở mức lửa trung bình, khi nước đường sôi thì hớt bọt nếu có, thỉnh thoảng dùng đũa đảo đều. Khi nước đường cạn chỉ còn sền sệt thì hạ lửa nhỏ liu riu, lúc này dùng đũa đảo đều liên tục để đường kết tinh bám đều vào dừa. Vậy là bạn đã có món mứt dừa với màu sắc mình yêu thích. Chúc các bạn thành công.